Đề tài Thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự

Điều tra là một giai đoạn quan trọng trong tố tụng hình sự trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi thực hiện để giải quyết vụ án. Kết quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án. Vì vậy để hoạt động điều tra có thể trở nên nhanh chóng và chính xác thì cần có những cơ quan có thẩm quyền chuyên trách về điều tra trong tố tụng hình sự. Do đó đặt ra vấn đề thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự. Trong hệ thống các cơ quan điều tra của của nước ta gồm có cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển. Thẩm quyền của các cơ quan này trong hoạt động điều tra được qui định khá rõ và cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Vấn đề điều tra trong tố tụng hình sự là một vấn đề rất rộng vì vậy trong giới hạn của đề bài tôi xin nêu lên những qui định về thẩm quyền điều tra của các cơ quan điều tra cùng những khó khăn bất cập trong việc xác định thẩm quyền điều tra. Rất mong được các thầy cô quan tâm góp ý để tôi có thể hiểu sâu vấn đề này hơn.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2618 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA A/ Lời mở đầu Điều tra là một giai đoạn quan trọng trong tố tụng hình sự trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi thực hiện để giải quyết vụ án. Kết quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án. Vì vậy để hoạt động điều tra có thể trở nên nhanh chóng và chính xác thì cần có những cơ quan có thẩm quyền chuyên trách về điều tra trong tố tụng hình sự. Do đó đặt ra vấn đề thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự. Trong hệ thống các cơ quan điều tra của của nước ta gồm có cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển. Thẩm quyền của các cơ quan này trong hoạt động điều tra được qui định khá rõ và cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Vấn đề điều tra trong tố tụng hình sự là một vấn đề rất rộng vì vậy trong giới hạn của đề bài tôi xin nêu lên những qui định về thẩm quyền điều tra của các cơ quan điều tra cùng những khó khăn bất cập trong việc xác định thẩm quyền điều tra. Rất mong được các thầy cô quan tâm góp ý để tôi có thể hiểu sâu vấn đề này hơn. B/ Nội dung I/Khái quát chung về thẩm quyền điều tra Theo từ điển Tiếng Việt, Thẩm quyền nói chung là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề théo pháp luật (như thẩm quyền xét xử của Tòa án) Như vậy hiểu theo nghĩa rộng thì thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi và ra quyết định pháp lí nhất định của chủ thể theo qui định của pháp luật. Nói cách khác thẩm quyền là quyền hạn của một cơ quan, một tổ chức hoặc một cá nhân được làm một việc hoặc một loại công việc trong phạm vi pháp luật cho phép, phạm vi đó là giới hạn của thẩm quyền. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự phân định thẩm quyền được thiết lập giữa các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng. Từ góc độ tố tụng hình sự thì thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ thực hiện các hành tố tụng và ra quyết định tố tụng của cơ quan , tổ chức, cá nhân được pháp luật tố tụng hình sự qui định. Cũng theo từ điển Tiếng Việt thì điều tra là những hành động “tìm hỏi, xem xét để biết rõ sự thật”. Như vậy thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ tìm hiểu hành vi phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, xác định hậu quả của tội phạm. Để thực hiện các biện pháp bảo đảm bồi thường, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Để thực hiện các hành vi nêu trên, CQĐT, Điều tra viên có quyền ban hành các quyết định tương ứng. Các quyenf này không chỉ giao cho thủ trương, phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên mà còn là thủ trưởng các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra. Thẩm quyền điều tra tố tụng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động quyết định của các chủ thế nhất định theo qui định của pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thể hiện qua việc tìm tòi, xem xét đẻ biết rõ sự thật của vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra II/ Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra 1.Thẩm quyền của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân 1.1.Thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cơ quan Cảnh sát điều tra theo qui định của pháp luật hiện hành. Theo qui định tại Điều 9 PLTCĐTHS năm 2004, CQCSĐT bao gồm: CQCSĐT Bộ công an, CQCSĐT Công an cấp tỉnh, CQCSĐT Công an cấp huyện. 1.1.1. Về thẩm quyền của CQCSĐT Bộ Công an: -Theo khoản 3 Điều 11 PLTCĐTHS năm 2004 thì CQCSĐT Bộ Công an có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền của CQCSĐT Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS qui định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa. -Giúp Bộ trưởng Bộ Công an thực hiện, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trong hoạt động điều tra, xử lí tội phạm đối với các CQCSĐT Công an cấp tỉnh, cấp huyện trong cả nước; hướng dẫn các cơ quan khác của LLCSND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện thẩm quyền điều tra theo qui định của BLTTHS và PLTCĐTHS năm 2004. -Nghiên cứu, tổng hợp tình hình tội phạm và công tác điều tra,xử lí các tội phạm thuộc thảm quyền của CQCSĐT trong CAND; thực hiện công tác thống kê hình sự theo qui định của pháp luật. -Tổ chức nghiên cứu sơ kết, tổng kết công tác điều tra, xử lí các tội phạm thuộc thảm quyền cảu CQCSĐT trong CAND *Tổ chức CQCSĐT Bộ công an gồm có: Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Cục Cảnh sát điều tra về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và văn phòng CQCSĐT. Tổ chức CQCSĐT Công an cấp tỉnh gồm có Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và Văn phòng CQCSĐT. Tổ chức CQCSĐT Công an cấp huyện gồm có Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và bộ máy giúp việc CQCSĐT. -Cục Cảnh sát điều tra về tội phạm trật tự xã hội: Theo thông tư số 12/2004/TT-BCA(V19) ngày 23/9/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thi hành một số qui định của PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND và quyết định số 188/2005/QĐ-BCA(X13) ngày 2/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an thì Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau: + Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp về trật tự xã hội; những vụ án liên quan đến nhiều địa phương hoặc có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp tỉnh quy định tại chương XII (các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người), XIII (các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân), XIV (các tội phạm sở hữu), XV (các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình), XIX (các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng), XX (các tội phạm xâm phạm trật tự quản lí hành chính, trừ các tội qui định tại các điều 224, 225, 226, 251), XXII (các tội xâm phạm hoạt động tư pháp) của BLHS nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra; riêng các tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước (Điều 144), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng dến tài sản (Điều 145) trong chương XIV thì đối với trường hợp đối tượng lợi dụng tư cách pháp nhân của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp lợi dụng việc kí kết hợp đồng kinh tế để phạm tội thì giao cho Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ thực hiện việc điều tra theo sự phân công Thủ trưởng CQCSĐTT; tiếp nhận điều tra tố tụng những vụ án do các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao theo qui định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an + Chủ trì việc tổ chức điều tra tại hiện trường các vụ án về trật tự xã hội nêu trên. Tổ chức việc truy tìm tung tích nan nhân, vật chứng, ra quyết định truy nã và truy bắt kẻ phạm tội về trật tự xã hội và kiểm tra, đôn đốc, theo dõi kết quả thực hiện công tác truy nã theo qui định + Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác điều tra, xử lí tội phạm về trật tự xã hội. Cục Cảnh sát diều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ: Theo thông tư số 12/2004/TT-BCA(V19) hướng dẫn thi hành một số qui định của PLTCĐTHD năm 2004 trong CAND và quyết định số 189/2005QĐ-BCA(X13) ngày 2/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an thì Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: + Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ có liên quan đến nhiều địa phương hoặc người nước ngoài thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp tỉnh qui định tại các chương XVI (các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế), XVII (các tội phạm về môi trường), XXI (các tôi phạm về chức vụ), các tội thuộc Điều 139, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 224, 225,226, 251 BLHS.Chương XX của BLHS nhưng xét thấy cần thiết cần trực tiếp điều tra; tiếp nhận điều tra tố tụng những vụ án do các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra chuyển giao theo qui định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an. + Tổ chức việc truy tìm, ra quyết định truy nã, truy bắt kẻ phạm tội về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ và kiểm tra, đôn đốc, theo dõi kết quả thực hiện việc truy nã, truy tìm theo qui định. + Sơ kết, tổng kết công tác điều tra, xử lí tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ. - Cục Cảnh sát điều tra tôi phạm về ma túy: Theo thông tư số 12/2004/TT-BCA(V19) hướng dẫn thi hành một số qui định của PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND và quyết định số 191/2005/QĐ-BCA9X13) ngày 2/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an thì Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau: +Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp về ma túy; những vụ án liên quan đến nhiều địa phương hoặc có liên quan đến người nước ngoài thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp tỉnh qui định tại chương XVIII (các tội phạm về ma túy) của BLHS nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra; tiếp nhận điều tra tố tụng những vụ án do các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao theo qui định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an. + Chủ trì việc tổ chức điều tra tại hiện trường các vụ án về ma túy nêu trên. Tổ chức, chỉ đạo việc truy tìm tung tích nan nhân, ra quyết định truy nã và truy bắt kẻ phạm tội về ma túy; kiểm tra, đôn đốc, theo dõi kết quả thực hiện việc truy nã, truy tìm theo qui định. + Sơ kết, tổng kết kinh nghiệm công tác điều tra, xử lí tội phạm về ma túy. -Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ công an: Theo thông tư số 12/2004/TT-BCA(V19) hướng dẫn thi hành một số qui định của PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND và Quyết định số 190/2005/QĐ-BCA(X13) ngày 2/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an thì Văn phòng CQCSĐT Bộ Công an có các nhiệm vụ cụ thể sau: + Tổng hợp, nghiên cứu, phân tích tình hình hoạt động của các loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT trong CAND; tình hình công tác và hoạt động của lực lượng cảnh sát điều tra để tham mưu cho Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát và Bộ trưởng Bộ Công an. + Trực ban hình sự, tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm, phân loại và chuyển ngay cho các đơn vị có thẩm quyền giải quyết; + Quản lí con dấu của CQCSĐT Bộ Công an; +Kiểm tra hướng dẫn cá đơn vị, địa phương thực hiện chương trình, kế hoạch công tác theo hệ nghiệp vụ của LLCSĐ trong hoạt động điều tra, xử lí tội phạm; tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật, nghị quyết, thông tư, chỉ thị, chế độ công tác có liên quan đến hoạt động điều tra,xử lí tội phạm theo qui định. + Giúp thủ trưởng CQCSĐT Bộ Công an giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng tố tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của Điều tra viên, Phó thủ trưởng CQCSĐT Bộ Công an theo qui định của BLTTHS; + Tổng hợp, theo dõi, kiểm tra và hướng dẫn công tác truy nã, đình nã các đối tượng phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của lực lượng cảnh sát điều tra theo qui định; + Tổng kết, sơ kết công tác điều tra hình sự và thực hiện các nhiệm vụ khác thuộc lĩnh vưc quản lí nhà nước của CQCSĐT Bộ Công an; tổ chức công tác thống kê tội phạm theo qui định 1.1.2. Thẩm quyền điều tra của CQCSĐT công an tỉnh Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh thực hiện thẩm quyền trong điều tra như sau: - Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm qui định từ Chương XII đến Chương XXII của BLHS khi các tội đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh (trừ các tội phạm thuộc thẩn quyền của CQĐT VKSND tối cao và CQANĐT trong CAND) hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT công an cấp huyện nhưng xét thấy cần thiết phải điều tra. - Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra đối với các CQCSĐT cấp huyện; hướng dẫn các cơ quan khác của LLCSND ở địa bàn cấp tỉnh được giao nhiệm vụ tiến hành, một số hoạt động điều tra thực hiện thẩm quyền điều tra theo qui định của BLTTHS, PLTCĐTHS và Bộ Công an; - Nghiên cứu, tổng hợp tình hình tooij phạm và công tác điều tra,xử lí tội phạm vể trật tự xã hội, trật tự quản lí kinh tế và chức vụ, tội phạm về ma túy trên địa bàn cấp tỉnh * Thẩm quyền điều tra của các đơn vị trong CQCSĐT Công an cấp tỉnh. - Phòng cảnh sát điều tra về trật tự xã hội: Tiến hành điều tra các vụ án hình sự vế các tội phạm qui định tại các chương XII, XIII, XV, XIX, XX, XXII của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan an ninh đièu tra trong Công an nhân dân) hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. - Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ: Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại chương XVI, XVII, XXI của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra) hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. - Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy: Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tọi phạm qui định tai chương XVIII của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. 1.1.3. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Công an cấp huyện Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện gôm có Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Đội cảnh sát điều tra về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm qui định tại từ chương XII đến chương XXII của BLHS năm 1999 khi các tội đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao và CQANĐT trong Công an nhân dân, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS qui định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục, ngăn ngừa. - Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm qui định tại các chươnng XII, XIII, XIV, XĨ, XX, XXII của BLHS năm 1999 khi các tội đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan điều tra an ninh nhân dân trong Công an nhân dân. - Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm qui định tai các chương XVI, XVII, XXI của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trừ các tội phạm thuộ thẩm quyền của cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân. - Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm qui định tại chương XVIII của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện. 1.2. Thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan an ninh điều tra theo qui định của pháp luật hiện hành Về tổ chức, theo qui định của PLTCĐTHS năm 2004, cũng như trước đây, CQANĐT trong CAND chỉ có tổ chức ở Bộ Công an và ở Công an cấp tỉnh. - Thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra cấp tỉnh Cơ quan an ninh điều tra Công an cấp tỉnh có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về các tội xâm phạm an ninh quốc gia qui định tại các chương XI của BLHS (gồm 14 tội phạm); các tội phá hoại hòa bình, tộ phạm chiến tranh qui định tại chương XXIV của BLHS (gồm 4 tội) và các tội phạm qui định tại các điều luật sau của BLHS, khi các tội đó thuộc thẩm quyền xét xử của - Thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an: Điều tra các vụ án hình sự về những tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc các vụ án liên quan đến nhiều địa phương và người nước ngoài thuộc thẩm quyền điều tra của CQANĐT Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra; hoặc các chuyên án trinh sát, các sự việc có dấu hiệu phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia do các đơn vị trinh sát thộc Tổng cục an ninh chuyển giao. Nếu so sánh các qui định trước đây, thẩm quyền điều tra của CQANĐT trong CAND theo pháp luật hiện hành được qui định rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, kể từ ngày1/10/2004, CQANĐT trong CAND chỉ điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm như đã nêu trên, không điều tra tội phạm buôn lậu qui định tại điều 153 BLHS; Tội vận chuyển trái phép hang hóa, tiền tệ qu biên giới qui định tại điều 154 BLHS; Tội sản xuất , tang trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất cháy, chất độc qui định qui định tại Điều 238 BLHS và các vụ án mà người thực hiện tội phạm là cán bộ chiến sĩ an ninh nhân dân. 1.3. Quyền hạn điều tra của các cơ quan khác trong Công an nhân dân 1.3.1. Quyền hạn điều tra của cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. - Cục Cảnh sát giao thông đường bộ- đường sắt, phòng Cảnh sát giao thông đường bộ- đường sắt trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm qui định tại điều 202, 203, 204, 205, 206, 207, 208, 209, 210 và 211của BLHS thì Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ- đường sắt và trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ- đường sắt ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hò sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; - Cục Cảnh sát giao thông đường thủy, Phòng Cảnh sát giao thông đường thủy trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm qui định tại các điều 212, 213, 214 và 215 BLHS thì Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường thủy, trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường thủy ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hò sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; - Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm qui định tại các điều 232, 234, 238, 239 và 240 của BLHS năm 1999 thì Cục trưởng Cục phòng cháy, chữa cháy, Trưởng phòng phòng cháy, chữa cháy ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hò sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án; - Cục Cảnh sát quản lí hành chính về trật tự xã hội, Phòng Cảnh sát quản lí về trật tự xã hội trong khi làm nhiệm vụ c
Luận văn liên quan