Theo từ điển tiếng Việt do viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là: “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Từ khái niệm này giúp ta có thể hiểu thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc một nhân viên Nhà nước.
Mỗi cơ quan Nhà nước khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình đều hoạt động trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định với những quyền năng mà pháp luật cho phép. Việc thực hiện này gọi là thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó; sự phân định thẩm quyền là điều kiện cần thiết đảm bảo cho hoạt động của bộ máy Nhà nước đồng bộ, nhịp nhàng không trùng lặp, chồng chéo nhau.
Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất không phân chia, nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tòa án là một cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp, có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội. Thực hiện chức năng này, Tòa án có quyền xét xử các vụ án. Quyền xét xử các vụ án được hiểu là thẩm quyền xét xử. Và thẩm quyền này chỉ thuộc về Tòa án mà không thuộc về một cơ quan Nhà nước nào khác.
14 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của toà án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN
1. Các khái niệm.
a. Khái niệm chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án
Theo từ điển tiếng Việt do viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là: “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Từ khái niệm này giúp ta có thể hiểu thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc một nhân viên Nhà nước.
Mỗi cơ quan Nhà nước khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình đều hoạt động trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định với những quyền năng mà pháp luật cho phép. Việc thực hiện này gọi là thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó; sự phân định thẩm quyền là điều kiện cần thiết đảm bảo cho hoạt động của bộ máy Nhà nước đồng bộ, nhịp nhàng không trùng lặp, chồng chéo nhau.
Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất không phân chia, nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tòa án là một cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp, có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội. Thực hiện chức năng này, Tòa án có quyền xét xử các vụ án. Quyền xét xử các vụ án được hiểu là thẩm quyền xét xử. Và thẩm quyền này chỉ thuộc về Tòa án mà không thuộc về một cơ quan Nhà nước nào khác.
b. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự
Ở nước ta, thẩm quyền xét sử về hình sự là quyền của Tòa án đối với việc xét xử các vụ án Hình sự, trong đó có phân ra thẩm quyền xét xử sơ thẩm, thẩm quyền xét sử phúc thẩm, thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong các loại thẩm quyền thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm có ý nghĩa và tầm quan trọng hơn cả. Việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đúng đắn sẽ tạo điều kiện dễ dàng để xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Có thể hiểu khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là quyền của Tòa án được xét xử vụ án Hình sự do pháp luật tố tụng hình sự quy định trên cơ sở dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
2. Những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Toà án.
Muốn quy định thẩm quyền xét xử được chính xác phải dựa vào những căn cứ, cơ sở có tính khoa học được đúc rút từ thực tiễn. Dựa vào những căn cứ này, nhà làm luật tính toán, cân nhắc đến mọi khả năng, dự liệu các tình huống để quy định thẩm quyền cho mỗi cấp Tòa án.
Căn cứ vào tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm: Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật thể hiện thông qua mức chế tài quy định đối với tội phạm đó. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng cao. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác thì khi phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án các cấp phải căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm. Theo đó, loại tội phạm càng nghiêm trọng càng đòi hỏi cơ quan và người tiến hành tố tụng có năng lực cao hơn.
Cùng với đó, khi quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự còn phải căn cứ vào tính phức tạp của từng loại tội phạm. Tính phức tạo của tội phạm có thể được xem xét ở các mặt chủ thể, khách thể, đường lối xử lý tội phạm, khả năng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Sở dĩ, quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và phức tạp của tội phạm vì đây là hai khái niệm không đồng nhất. Thông thường thì tội phạm nghiêm trọng là tội phạm phức tạp, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm đơn giản. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp, tội phạm ít nghiêm trọng lại phức tạp. Ví dụ như vụ án mà người phạm tội là người có chức sắc cao trong tôn giáo, mặc dù tội phạm là ít nghiêm trọng, nhưng đây được coi là những vụ án phức tạp khi xét xử.
Căn cứ vào cách tổ chức hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng, vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng: Dựa vào cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực, hành chính và tư pháp theo địa vị hành chính lãnh thổ, nhà làm luật quy định thẩm quyền xét xử cho từng cấp Toà án. Việc quy định này phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước hiện nay của ta. Bộ luật tố tụng hình sự đã căn cứ vào cách tổ chức đó để quy định thẩm quyền xét xử.
Cùng với cách tổ chức cơ quan nhà nước theo địa giới hành chính, việc phân định thẩm quyền xét xử còn căn cứ vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm quyền xét xử của Tòa án được coi là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra và thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát. Mỗi vụ án có được xét xử tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả điều tra. Vì vậy quy định thẩm quyền xét xử phải tính đến khả năng của cơ quan điều tra, Viện kiêm sát cùng cấp để có sự phù hợp về thẩm quyền giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng.
Căn cứ vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nói riêng và người tiến hành tố tụng nói chung: Xã hội luôn đòi hỏi Tòa án phải là biểu tượng của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải là nơi thể hiện bản chất của pháp luật. Để có thể làm được điều đó, vấn đề hết sức quan trọng là Tòa án phải có đội ngũ những người xét xử có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của đội ngũ điều tra viên và kiểm sát viên cũng có quan hệ khăng khít với thẩm quyền xét xử của từng cấp Toà án. Căn cứ vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, điều tra viên hiện tại và khả năng đào tạo trong tương lai cũng như năng lực công tác của họ mà các nhà làm luật quy định thẩm quyền xét xử hình sự cho phù hợp.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế định khác của tố tụng hình sự: Trong tố tụng hình sự các chế định pháp lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Sự hình thành và phát triển của một chế định này luôn tác động đến những chế định khác. Là một chế định quan trọng của Luật TTHS, thẩm quyền xét xử của Toà án có liên quan tới nhiều chế định khác. Khi thay đổi thẩm quyền xét xử sẽ tác động đến những chế định đó. Sự tác động này có thể theo chiều hướng thúc đẩy nhưng cũng có thể là hạn chế việc thực hiện các chế định đó. Vì vậy, khi quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án phải căn cứ vào mối liên hệ với các chế định pháp lý khác của tố tụng hình sự.
Căn cứ hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt động tố tụng khác: Khi tiến hành các hoạt động tố tụng phải tính toán đến hiệu quả kinh tế sao cho vẫn đạt được kết quả nhưng chi phí thấp. Yêu cầu này được đặt ra không chỉ với hoạt động xét xử mà còn đối với các hoạt động tố tụng khác như điều tra, truy tố. Có thể thấy rằng vụ án càng được xét xử ở Tòa án cấp thấp hơn thì càng giảm được chi phí của Nhà nước cho các hoạt động điều tra, xét xử cũng như giảm phần chi phí của người tham gia tố tụng,, các tổ chức xã hội và công dân tham gia tố tụng hình sự.
Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và những người tham gia tố tụng nói riêng: Trong tố tụng hình sự, phạm vi các chủ thể cần được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp là rất lớn. Vì thế xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án phải đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người. Việc quy định một vụ án thuộc thẩm quyền xét xử cuả Tòa án cấp này hay Tòa án cấp khác đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Một vụ án nếu được quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương thì quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được thực hiện. Vì vậy, quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án không thể không tính đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và người tham gia tố tụng nói riêng có được đảm bảo hay không.
Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong những giai đoạn nhất định: Sự biến đổi tình hình tội phạm làm cho số lượng vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các cấp Tòa án cũng thay đổi, có thể tăng lên hoặc giảm đi. Vì vậy, quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án phải căn cứ vào diễn biến tình hình tội phạm.
II. THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN CÁC CẤP TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1. Giai đoạn 1945 - 1960.
a. Thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự và Toà án binh.
Tòa án là một trong những cơ quan được tổ chức sớm nhất từ những ngày đầu mới giành được chính quyền. Chỉ sau một thời gian ngắn sau khi giành được Chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ngày 13/09/1945 và bổ sung bằng Sắc lệnh 21 ngày 14/02/1946 thành lập các Tòa án Quân sự. Tất cả các Tòa án Quân sự trên cả nước đều có thẩm quyền xét xử tất cả người nào phạm vào một việc gì đó phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngoài ra còn có quyền xét xử cả những tội phạm khác do pháp luật quy định. Thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm, phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đó, nên các Tòa án Quân sự đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Các quyết định của Tòa án đều có hiệu lực thi hành ngay, bị cáo không có quyền kháng cáo; riêng án tử hình thì bị cáo có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm.
Sau khi thành lập hệ thống Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử mọi tội phạm, để tăng cường sức mạnh chiến đấu và giữ nghiêm kỷ luật của Quân đội cách mạng, ngày 23/08/1946 Bộ trưởng Bộ nội vụ thay mặt Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ký sắc lệnh 163 tổ chức Tòa án binh lâm thời đặt tại Hà Nội. Sau đó, để kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến kiến quốc, ngày 16/02/1947 Chủ tịch Chính phủ ra sắc lệnh 19 tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam và đặt ở mỗi khu vực một Tòa án binh. Thẩm quyền xét xử của các Tòa án binh được quy định trong sắc lệnh 45 SL ngày 25/04/1947 về tổ chức Tòa án binh tối cao. Theo sắc lệnh này các Tòa án binh có thẩm quyền xét xử các quân nhân từ cấp Trung doàn trưởng trở lên và các quân nhân thuộc những cơ quan Trung ương. Những nhân việc thuộc các cơ quan trung ương của Bộ quốc phòng và Bộ tổng chỉ huy kể cả các Trung đoàn trưởng trở lên cũng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án binh khu trung ương
b. Thẩm quyền xét xử của Toà án tư pháp và Toà án đặc biệt.
Các Tòa án tư pháp được thành lập theo sắc lệnh số 13-Sl ngày 24/11/1946. Các Tòa án được được tổ chức thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương. Ở mỗi quận (Phủ, Huyện, Châu) tổ chức một Tòa án sơ cấp, ở mỗi tỉnh và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có một Tòa án đệ nhị cấp. Tòa án sơ cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án phạt giam từ 1 đến 5 nhày, những vụ án xét xử bồi thường quá 150 đồng hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy. Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền xét xử những vụ việc tiểu hình và đại hình. Việc tổ chức các Tòa án tư pháp và tăng thẩm quyền cho các Tòa án này trong thời kỳ chiến tranh đã kịp thời trấn áp tội phạm góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Thời kỳ đó có một số vùng còn tạm thời bị địch chiếm đóng nên cần phải có Tòa án có thẩm quyền rộng để kịp thời xét xử bọn tội phạm, do vậy ngày 17/11/1950 Chủ tịch nước ra sắc lệnh số 157- SL tổ chức các Tòa án nhân dân vùng tạm chiếm đóng. Thẩm quyền các Tòa này rộng hơn các Tòa án vùng tự do.
Cùng với việc thành lập các Tòa án quân sự, Tòa án binh, cần phải có những Tòa án đặc biệt để xét xử những cán bộ, viên chức Nhà nước phạm tội hối lộ, tham nhũng, cửa quyền làm giảm uy tín của chính quyền Cách mạng. Vì thế, một Tòa án đặc biệt đã được thành lập tại Hà Nội để xét xử các cán bộ, nhân viên Nhà nước phạm các tội hối lộ, tham ô công quỹ.
2. Giai đoạn 1960 đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
a. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện.
Từ năm 1950, sau khi Tòa án sơ cấp được đổi tên thành Tòa án Nhân dân huyện thì các Tòa án này vẫn thực hiện thẩm quyền của Tòa án sơ cấp trước đây. Đến khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành năm 1960 đã quy định thẩm quyền cho Tòa án nhân dân huyện. Đến ngày 23/03/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh về tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân địa phương tiếp tục hoàn thiện về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tòa án thị xã, thành phố, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa, sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt tù từ 2 năm trở xuống. Theo đó, thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện được mở rộng đáng kể.
Nhưng thẩm quyền này của Tòa án nhân dân huyện chỉ thích hợp vào những năm đầu của thập kỷ 60. Khi Đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại thì thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện phải được tăng cường. Vì thế Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành thông tư số 02-TC ngày 20/02/1966 quy định rõ ràng những loại việc Tòa án nhân dân cấp huyện được xét xử, những loại việc mà Tòa án nhân dân huyện chỉ có quyền xét xử khi được Tòa án cấp tỉnh giao cho, những việc Tòa án nhân dân huyện phải thỉnh thị Tòa án cấp tỉnh trước khi xét xử, những vụ việc thuộc quyền Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Tòa án cấp tỉnh có thể giao cho cá Tòa cấp huyện xử thêm một số vụ việc có tính chất phức tạp và quan trọng hơn nhưng mức hình phạt vẫn từ 2 năm tù trở xuống.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 được ban hành thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1960. Khi quy định thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, các nhà làm luật đã nhận thấy những điểm bất hợp lý về việc quy định thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện. Để khắc phục những bất hợp lý đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện được mở rộng hơn. Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện được xác định theo loại việc chứ không xác định theo mức hình phạt mà Tòa án có thể áp dụng như trước đây. Các Tòa án cấp huyện được xét xử những tội phạm về hình sự thường mà khung một của hình phạt là 7 năm (nếu ở khung 2 nhưng thực tế chỉ cần xử phạt tương đương với khung 1 vì có nhũng tình tiết giảm nhẹ quan trọng).
b. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Pháp lệnh tổ chức Tòa án nhân dân năm 1961 đã giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện được xét xử những vụ án có thể phạt tù từ 2 năm trở xuống. Như vậy, Tòa án nhân dân tỉnh chỉ còn thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án có thể xử phạt trên hai năm tù và những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng lấy lên để xét xử.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 lại một lần nữa mở rộng thẩm quyền xét xử của các Tòa án cấp huyện, cho phép xét xử các vụ án hình sự trừ những tội xâm phạm an ninh Quốc gia và các tội phạm khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp gây hậu quả lớn. Theo đó, Tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, gây hậu quả lớn hoặc các tội phạm xâm phạm an ninh Quốc gia.
c. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao.
Theo Nghị định số 3881/TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao và những vụ án đặc biệt mà Viện công tố Trung ương hoặc Tòa án nhân dân tối cao thấy phải do Tòa án tối cao xét xử.
Sau đó, tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Pháp lệnh ngày 23/03/1961, Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cũng là chung thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao và những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dưới mà Tòa án nhân dân tối cao xét thấy cần lấy lên xét xử.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 quy định Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, đến Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định Tòa án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử sơ thẩm nữa.
III. THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH.
Thẩm quyền xét xử theo việc.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
a.Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
Khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định: Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng trừ những tội phạm sau:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
- Các tội phá hoại hoà bình, chống phá loài người và tội phạm chiến tranh.
- Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216 - 219, 221 - 226, 263. 293 - 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
Như vậy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện đã được mở rộng hơn rất nhiều so với Bộ luật tố tụng Hình sự. Nếu như trước đây, Tòa án cấp huyện chỉ được xét xử các tội có khung hình phạt từ 7 năm tù trở xuống thì nay đã được nâng lên mức 15 năm tù.
Sở dĩ thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện được mở rộng như vậy vì các lý do:
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán của ở hầu hết các Tòa án cấp huyện ngày càng được nâng cao.
- Số lượng biên chế của Tòa án cấp huyện và cơ sở vật chất đã tương đối ổn định
- Tránh việc tồn đọng án ở cấp tỉnh…
b. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
So với nhũng quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự không có khác nhau, đó là có thẩm quyền xét xử hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Các vụ án Tòa án cấp tỉnh cần lấy lên để xét xử là những vụ án phức tạp hoặc vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan Công an, cán bộ lãnh đạo ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội.
Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 thì tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tính trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được tập trung làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.
- Những người không thuộc các quy định tại Khoản 1 Pháp lệnh này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét sử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách riêng ra để xét xử thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của riêng mình.
Nếu vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí mật quốc phòng như địa điểm, thiết bị, kế hoạch quân sự… thì Tòa án quân sự xét xử. Những việc phạm tội khác, Tòa án quân sự có thể chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân.
Như vậy, có thể thấy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo đối tượng rộng hơn Tòa án quân sự.
3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Thẩm quyền theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
Thông thường, vụ án hình sự được xét xử ở Tòa án nơi tội phạm thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Sở dĩ Bộ luật tố tụng Hình sự quy định nơi thực hiện tội phạm của bị cáo là nơi đầu tiên xác định Tòa án có thẩm quyền x