Quá trình tiến hành giải quyết một vụ án hình sự trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau. Trong đó có thể coi việc xét xử vụ án hình sự có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết một vụ án hình sự bởi chỉ trong quá trình xét xử các chứng cứ mới được công khai và quyết định bị cáo có tội hay không có tội.
Theo nguyên tắc xét xử hai cấp bản án xét xử sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định. Tuy nhiên rõ ràng quá trình xét xử sơ thẩm vẫn có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh cho bị cáo. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhà nước ta đang tiến hành cuộc cải cách tư pháp, việc xét xử sơ thẩm lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Để tiến hành xét xử sơ thẩm chúng ta nhất thiết phải xác định được thẩm quyền xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự. Việc xác định đúng thẩm quyền xét xử chẳng những có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế mà hơn nữa còn giúp việc xét xử sơ thẩm được đúng đắn, công bằng hơn. Việc tìm hiểu, hoàn thiện những quy định này được đặt ra một cách hết sức bức thiết vì trên thực tế ở nước ta các quy định về xét xử sơ thẩm nói chung và các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm nói riêng vẫn còn rất nhiều hạn chế và bất cập, nhiều quy định đã không còn phù hợp gây khó khăn cho quá trình áp dụng.
Với sự tìm hiểu về vấn đề này, tôi xin trình bày những hiểu biết của mình về các quy dịnh về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên với sự hiểu biết cùng với khả năng đánh giá vấn đề của một sinh viên năm thứ ba chắc chắn bài viết sẽ không thể tránh khỏi các sai lầm, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3112 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Quá trình tiến hành giải quyết một vụ án hình sự trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau. Trong đó có thể coi việc xét xử vụ án hình sự có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết một vụ án hình sự bởi chỉ trong quá trình xét xử các chứng cứ mới được công khai và quyết định bị cáo có tội hay không có tội.
Theo nguyên tắc xét xử hai cấp bản án xét xử sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định. Tuy nhiên rõ ràng quá trình xét xử sơ thẩm vẫn có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh cho bị cáo. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhà nước ta đang tiến hành cuộc cải cách tư pháp, việc xét xử sơ thẩm lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Để tiến hành xét xử sơ thẩm chúng ta nhất thiết phải xác định được thẩm quyền xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự. Việc xác định đúng thẩm quyền xét xử chẳng những có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế mà hơn nữa còn giúp việc xét xử sơ thẩm được đúng đắn, công bằng hơn. Việc tìm hiểu, hoàn thiện những quy định này được đặt ra một cách hết sức bức thiết vì trên thực tế ở nước ta các quy định về xét xử sơ thẩm nói chung và các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm nói riêng vẫn còn rất nhiều hạn chế và bất cập, nhiều quy định đã không còn phù hợp gây khó khăn cho quá trình áp dụng.
Với sự tìm hiểu về vấn đề này, tôi xin trình bày những hiểu biết của mình về các quy dịnh về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên với sự hiểu biết cùng với khả năng đánh giá vấn đề của một sinh viên năm thứ ba chắc chắn bài viết sẽ không thể tránh khỏi các sai lầm, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Dương
NỘI DUNG
I. Nhận thức chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp.
1. Khái niệm và căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của tòa án.
Trong thực tiễn lập pháp hiện nay đã đưa ra khái niệm khá chính xác về thẩm quyền xét xử. Theo quy định tại Điều 127 Hiến Pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002: “TAND Tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương. Các Tòa án quân sự và Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quyền xét xử thuộc về Tòa án được hiểu là thẩm quyền xét xử.
Khi xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của một vụ án, cần phải xác định đồng thời ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án, những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện tội phạm, những dấu hiệu liên quan đến người phạm tội. Chỉ trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng từng nhóm dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác. Vậy thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là: “Quyền của Tòa án được xét xử vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm, được thực hiện tính phức tạp của vụ án, địa điểm xẩy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân của người phạm tội”.
Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toàn án cần phải dựa vào các căn cứ sau:
Đường lối chính sách của Đảng;
Nguyền tăc cơ bản của luật tố tụng hính sự;
Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm;
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán cũng như điều tra viên, kiểm sát viên;
Biên chế và cơ sở vật chất;
Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm…
Quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong lĩnh vực hình sự ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố: hệ thống pháp luật, cách thức tổ chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực của Thẩm phán, điều kiện xét xử…mà việc quy định thẩm quyề xét xử cũng khác nhau.
ở Việt Nam, các Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ (trừ Toàn án quân trủng Hải quân của tòa án quân sự), thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng được quy định hỗn hơp:
Tòa án cấp Huyện và Tòa án Quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, TAQS cấp Quân Khu vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
2. Xét xử vụ án hình sự và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Bộ luật TTHS quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Hình sự. “Điều tra, truy tố, xét xử là các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, là các phần độc lập, liên quan đến nhau của quá trình TTHS, phân biệt với nhau bằng những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, những người tham gia tố tụng tương ứng, có trình tự thủ tục thực hiện các hành vi tố tụng khác nhau và đặc tính tố tụng khác nhau”.
Đặc điểm chung của quá trình tố tụng hình sự là:
- Mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ tố tụng nhất định.
- Mỗi giai đoạn có những cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhất định. Trong giai đoạn điều tra vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm…
- Mỗi giai đoạn có trình tự, thủ tục các hành vi tố tụng riêng. Trình tự, thủ tục đó do nội dung và nhiệm vụ cần giải quyết và những đòi hỏi cụ thể của các nguyên tắc tố tụng chung thể hiện trong giai đoạn đó quyết định.
- Mỗi giai đoạn được kết thúc bằng văn bản tố tụng khác nhau. Giai đoạn khởi tố kết thực bằng quyết định khởi tố, giai đoạn điều tra kết thúc bằng bản kết luận điều tra, giai đoạn kiểm sát điều tra và giai đoạn truy tố vụ án được kết thúc bằng bản cáo trạng, các giai đoạn xét xử kết thúc bằng bản án. Tất nhiên, các văn bản tố tụng trên là thể hiện cả quá trình điều tra hoàn chỉnh. Nếu vụ án được chấm dứt giữa chừng vì những lý do nhất định thì giai đoạn đó có thể được kết thúc bằng một văn bản tố tụng khác. ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là quyết định không khởi tố vụ án, ở giai đoạn kiểm sát điều tra có thể là quyết định đình chỉ vụ án của VKS, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có thể là quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán…
- Ở mỗi giai đoạn, các quan hệ tố tụng có những đặc điểm riêng của mình. Các quan hệ tố tụng ở giai đoạn điều tra có thể khác nhau ở giai đoạn xét xử. Khối lượng, phạm vi, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể quan hệ tố tụng khác nhau trong mỗi giai đoạn.
Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và kỷ cương đất nước.
Hiện nay, có nhiều các hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét xử, nhưng tựu chung lại thì xét xử là hoạt động xử lý vụ án căn cứ trên những quy định của pháp luật, kết quả là bản án được công bố.
Xét xử án hình sự, như trên đã phân tích bao gồm xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xét lại bản án và quyết định cảu tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tôi, đúng pháp luật có ý nghĩa rất lớn đối với xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm bởi lẽ:
Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, hoặc án phúc thẩm sẽ tuyên y án sơ thẩm nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Xét xử sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ không làm phát sinh kháng nghị giám đốc thẩm. Ngược lại xét xử sơ thẩm không đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới phải phúc thẩm, giám đốc thẩm và kết quả là bản án sơ thẩm sẽ bị sửa hoặc hủy để điều tra xét xử lại.
3. Mục đích của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Bảo vệ chế độ chính trị, trật tự an tòa xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của công dân…
Nội dung cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm là thực hiện tốt nhiệm vụ của bộ luật TTHS. Đó là:
Phát hiện nhanh chóng và xác định tội phạm một cách khách quan, tòa diện xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Từ đó áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với người phạm tội, đảm bảo tính cưỡng chế, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta và tăng cường tính giáo dục trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là công việc của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Công tác này đòi hỏi phải có những biện pháp tổng hợp về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và cả những tác động của pháp luật. Trong đó tòa án giữ vai trò rất quan trọng
4. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, toàn bộ nội dung vụ án sẽ được xem xét trong giai đoạn này, khác với cấp xét xử phúc thẩm chỉ xem xét vụ án theo nội dung kháng cáo kháng nghị. Do vậy việc xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm có ý ngĩa sâu sắc về mặt chính trị xã hội.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm sẽ bảo đảm được quyền tự do dân chủ của công dân.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của các hoạt động tố tụng.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm xét xử chính xác, khách quan các cụ án hình sự.
II. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của luật TTHS Việt Nam năm 2003.
1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau và căn cứ vào tính chất của tội phạm.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Tòa án nhân dân cấp Huyện là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử theo quy định của luật TTHS Việt Nam hiện hành. Việc phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp Huyện có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định thẩm quyền của cấp xét xử thấp nhất sau đó mới quy định thẩm quyền của các cấp xét xử cao hơn.
Khoản 1 Điều 170 Luật TTHS 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Theo đó thì thẩm quyền xét xử theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật TTHS 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 là 15 năm tù trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c Điều 170 Bộ luật TTHS.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật TTHS thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp Huyện được mở rộng hơn so với quy định tại Điều 145 Bộ luật TTHS năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp Huyện. Đây là một chủ trương mới và rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp Tòa án và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư pháp theo Nghị định 49-NĐ/TW của Bộ chính trị và đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện là một giải pháp giảm lượng án tồn đọng ở tòa án cấp tỉnh và tòa án phúc thẩm TAND tối cao.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và tàa án quan sự cấp quân khu.
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định tại khoản 2 Điều 170, Bộ luật TTHS 2003. Theo quy định của điều luật TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về những tội phạm nghiêm trọng, từ những vụ án về những tội mà mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù.
Những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực được quy định tại điểm a.b, c khảo 1 Điều 170 Bộ luật TTHS.
Những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới (cấp huyện, khu vực) nhưng TAND cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của vụ án.
Bộ luật TTHS không quy định cụ thể những vụ án nòa thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó, Chánh án tòa án, VTVKS và thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, VKS và TA cấp tỉnh cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử các vụ án sau:
Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất một vấn đề của vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong cộng đồng dân tộc ít người.
2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Đối tượng phạm tội được xem là một trong những dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án. Ở Việt Nam, phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng là phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và TAQS.
Trong bộ luật TTHS năm 2003 không có điều luật quy định cụ thể phân định đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAND.
Tại Điều 3 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử thì TAQS và TAND xét xử theo những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. Những người không phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội, hoặc những người bị phát hiện là phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do TAND xét xử (Điều 4, 5 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002).
Thẩm quyền xét xử đối với thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội được xác định tùy từng trường hợp cụ thể.
Theo quy định tại Điều 26, 29 của pháp lệnh tổ chức TAQS thì: các vụ án mà bị can, bị cáo phạm tội có cấp bậc từ Thượng tá trở lên, có chức vụ từ Đoàn trưởng và tương đương trở lên thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS cấp quân khu mà không phụ thuộc vào tội phạm được thực hiện thuộc loại nào: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Các vụ án còn lại thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS khu vực.
Đối với TAND, bộ luật TTHS không đặt ra thẩm quyền xét xử theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội tuy nhiên, trong hướng dẫn về việc tòa án cấp tỉnh quyết định lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện lên xét xử lại có đề cập đến vấn đề này. Theo thông tư liên tịch ngành 02/TTLN ngày 12/01/1998 của TANDTC, VKSNDTC, BTP, BNV thì những vụ án mà bị cáo là thẩm phán , kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo hoặc người có uy tín cao trong dân tộc ít người được TA cấp tỉnh lấy lên để xét xử, tức là thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh.
Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND & TAQS thì Chánh án TATC xem xét quyết định.
3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Khoản 1 Điều 171 bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định cụ thể về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội phạm được thực hiện nhằm tọa điêù kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng tìm kiếm được nhiều thời gian hơn trong việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng hoặc người liên quan trong vụ án.
Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp không thể xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc được tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau. Trong những trường hợp đó thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS thì ngoài quy tắc chung trên, việc xác định thẩm quyền còn phải căn cứ vào thông tư liên tịch số 01/TLT ngày 18/04/2005 của TANDTC, VKSNDTC, BQP, BCA “hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của TAQS”. Theo hướng dẫn của thông tư thì các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các TAQS khu vực thuộc quân khu được xét xử theo quy định của của Điều 171 bộ luật TTHS về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Còn các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Quân chủng hải quân và và tòa án quân sự khu vực quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc lãnh thổ. Các tòa án này có thẩm quyền xét xử các vụ án xẩy ra trong các đơn vị quân chủng, các vụ án mà bị cáo là người do quân chủng quản lý hoặc người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho các đơn vị thuộc quân chủng hải quân.
4, Thẩm quyền chuyển vụ án.
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật TTHS năm 2003 thì Tòa án có quyền chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án cho tòa án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực quyết định. Việc chuyển vụ án cho tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Tòa án chỉ được chuyển những vụ án cho tòa án có thẩm quyền khi vị án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên thì vụ án dù đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho tòa án có thẩm quyền. Trường hợp này, việc chuyển vụ án do hội đồng xét xử quyết định.
III. Hướng hoàn thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp.
1. Những bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của bộ luật TTHS hiện hành.
1.1. Những bất cập trong quy định của pháp luật vê thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp.
- BLTTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng mà tòa án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội cụ thể). Trước đây năng lực, tổ chức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động còn hạn chế, quy định như vậy là phù hợp. Tuy nhiên hiện nay năng lực thực tế của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan tố tụng hình sự cấp huyện nói riêng đã được nâng cao rất nhiều so với thời điểm bộ luật TTHS có hiệu lực.
- Thẩm quyền xét xử tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự quân khu, có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền tòa án cấp dưới lên xét xử như hiện nay là chưa hợp lý, còn nhiều quy định chung chung như vậy dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do việc khi chuyển vụ án từ cấp dưới lên cấp trên sẽ phải làm lại cáo trạng truy tố, hồ sơ vụ án chuyển qua lại nhiều lần mất nhiều thời gian không cần thiết.
-Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ quy định tại Điều 171 bộ luật TTHS đối với tội phạm sảy ra trên tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam. Bộ luật TTHS quy định thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nơi có sân bay, bến cảng tàu bay, tầu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc tòa án nơi tầu bay, tầu biển đó đăng ký. Quy định như vậy dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa các tòa án nói trên. Mặt khác, việc quy định cả những tòa á