Trong cuộc sống xã hội, các giao dịch dân sự rất phổ biến và mang tính tất yếu, nó diễn ra hàng ngày và không ngừng phát triển bởi nhu cầu sống bất tận của con người.
Bộ Luật Dân Sự ra đời năm 1995, trong đó những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được qui định tại mục 5 chương I phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, đã tạo ra hành lang pháp lý cho các giao dịch bảo đảm, hướng sự ứng xử của các bên trong giao dịch bảo đảm theo một chuẩn mực pháp lý nhất định.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế xã hội của đất nước có nhiều bước phát triển đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà các quan hệ trao đổi, lưu thông đang ngày càng phức tạp hơn, thì Bộ Luật Dân Sự 1995 nói chung, những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội mới. Xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế đất nước, cũng như hoàn thiện và đa dạng hoá các quan hệ dân sự, yêu cầu đặt ra đó là sửa đổi Bộ Luật Dân Sự 1995 nói chung, những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói riêng.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005 Bộ Luật Dân Sự được Quốc Hội thông qua, Bộ Luật Dân Sự 2005 ra đời trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển những qui định trong Bộ Luật Dân Sự 1995, đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình pháp điển hoá, góp phần hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Trong đó các qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được sửa đổi theo hướng hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Để đạt được sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn các qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó có những qui định về biện pháp bảo đảm thế chấp, cần phải có những nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các qui định này. Việc nghiên cứu các qui định về thế chấp là công việc cần thiết, bởi những qui định này điều chỉnh một loại giao dịch dân sự đang rất phát triển và phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay: Giao dịch bảo đảm.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn vấn đề “thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp.
59 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3205 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống xã hội, các giao dịch dân sự rất phổ biến và mang tính tất yếu, nó diễn ra hàng ngày và không ngừng phát triển bởi nhu cầu sống bất tận của con người.
Bộ Luật Dân Sự ra đời năm 1995, trong đó những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được qui định tại mục 5 chương I phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, đã tạo ra hành lang pháp lý cho các giao dịch bảo đảm, hướng sự ứng xử của các bên trong giao dịch bảo đảm theo một chuẩn mực pháp lý nhất định.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế xã hội của đất nước có nhiều bước phát triển đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà các quan hệ trao đổi, lưu thông đang ngày càng phức tạp hơn, thì Bộ Luật Dân Sự 1995 nói chung, những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội mới. Xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế đất nước, cũng như hoàn thiện và đa dạng hoá các quan hệ dân sự, yêu cầu đặt ra đó là sửa đổi Bộ Luật Dân Sự 1995 nói chung, những qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói riêng.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005 Bộ Luật Dân Sự được Quốc Hội thông qua, Bộ Luật Dân Sự 2005 ra đời trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển những qui định trong Bộ Luật Dân Sự 1995, đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình pháp điển hoá, góp phần hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Trong đó các qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được sửa đổi theo hướng hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Để đạt được sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn các qui định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó có những qui định về biện pháp bảo đảm thế chấp, cần phải có những nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các qui định này. Việc nghiên cứu các qui định về thế chấp là công việc cần thiết, bởi những qui định này điều chỉnh một loại giao dịch dân sự đang rất phát triển và phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay: Giao dịch bảo đảm.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn vấn đề “thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu các qui định pháp luật về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và thế chấp nói riêng đã có một số công trình khoa học như: “thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam” (Thạc sĩ Nông Thị Bích Diệp, luận văn thạc sĩ luật học 2006); “cầm cố, thế chấp để thực hiện nghĩa vụ dân sự” (Tiến sĩ Phạm Công Lạc, luận văn thạc sĩ luật học 1996); “Thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong pháp luật Việt Nam và cộng hoà Pháp” (Thạc sỹ Hoàng Thị Hải Yến, Luận văn Thạc sỹ Luật học 2004)
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên tạp trí chuyên ngành như: “Thời gian có hiệu lực của giao dịch bảo đảm” (Nguyễn Văn Phương, tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2001; “Một số vấn đề về giao dịch bảo đảm theo qui định pháp luật hiện hành” (Nguyễn Văn Mạnh, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06/2007; “Đăng kí thế chấp và hiệu lực của đăng kí thế chấp đối với người thứ ba” (Thạc sĩ Vũ Thị Hồng Yến, tạp chí luật học số 10/2007).
Các công trình trên đã khai thác một số khía cạnh pháp lý của các biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc các qui định mới của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản pháp luật mới hiện nay về thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài “Thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản” tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái quát về thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và những vấn đề liên quan.
- Phân tích những qui định pháp luật hiện hành về nội dung và yếu tố cấu thành của thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản. Qua đó đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khoá luận nhằm mục đích làm sáng tỏ những qui định mới về thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo pháp luật dân sự, phân tích các yếu tố pháp lý cấu thành biện pháp thế chấp, tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật thế chấp, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật thế chấp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu khoá luận, em sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin làm cơ sở lý luận và phương pháp luận .
Bên cạnh đó em sử dụng những phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, suy luận logic để đánh giá các vấn đề, trên cơ sở đó làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận, cũng như thực tiễn của biện pháp thế chấp tài sản.
6. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận gồm phần lời nói đầu, kết luận và 3 chương sau:
Chương I: Khái quát chung về thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản.
Chương II: Pháp luật Việt Nam hiện hành về thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản.
Chương III: Thực trạng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và một số kiến nghị.
Chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ NỢ TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1 Lý luận chung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
* Khái niệm
Một quan hệ nghĩa vụ thường được xác lập bởi hai bên chủ thể, đó là bên có quyền và bên có nghĩa vụ. Khi tham gia vào các quan hệ nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên luôn tương ứng với nhau. Tuy nhiên “có những quan hệ nghĩa vụ mà trong đó, một bên chỉ có quyền yêu cầu nhưng không phải gánh vác nghĩa vụ nào, còn một bên có nghĩa vụ thực hiện cho bên kia một công việc nhất định mà không có quyền yêu cầu” [16, trang 14]
Trong thực tế, các biện pháp bảo đảm có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, chỉ khi nào bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ như không thực hiện nghĩa vụ, có thực hiện nhưng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, lợi ích của bên có quyền bị vi phạm thì bên có quyền mới yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết và khi đó biện pháp cưỡng chế có thể được áp dụng. Tuy nhiên, việc yêu cầu đó đòi hỏi một khoảng thời gian dài, trải qua nhiều giai đoạn và có thể trong thời gian đó nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên có quyền như người vi phạm không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ hoặc cố tình bán, tẩu tán hết tài sản vào thời điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế, khi đó quyền lợi của bên có quyền không được bảo đảm. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm là rất cần thiết, khi có sự vi phạm nghĩa vụ người có quyền sẽ bảo vệ được lợi ích của mình bằng cách tác động trực tiếp lên tài sản bảo đảm nếu bên có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình bằng một tài sản nào đó.
Qua sự phân tích ở trên cho thấy, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm có ý nghĩa rất quan trọng, một mặt các biện pháp này bảo vệ quyền lợi của các bên, tạo điều kiện cho bên có quyền có thể chủ động hưởng quyền dân sự trên thực tế. Mặt khác, nó bảo đảm sự ổn định của các quan hệ nghĩa vụ, tránh được các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đầy đủ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ . Chính vì vậy, pháp luật qui định các biện pháp bảo đảm và cho phép các bên có thể thoả thuận, đưa ra các biện pháp bảo đảm phù hợp cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng.
Vậy bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là gì? Theo nghĩa khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Tổng hợp các qui định pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong đó qui định điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Còn theo nghĩa chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên có nghĩa vụ sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình hoặc của người khác nếu người đó đồng ý, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trước bên có quyền. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể do pháp luật qui định hoặc do các bên thoả thuận áp dụng trong phạm vi pháp luật cho phép.
Về mặt bản chất, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do pháp luật qui định hay do các bên thoả thuận còn có tính chất bắt buộc đối với các bên trong giao dịch.
* Đặc điểm của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Đối tượng của biện pháp bảo đảm là tài sản (trừ biện pháp tín chấp)
Quan hệ nghĩa vụ dân sự là những quan hệ mang tính tài sản, do đó đối tượng của biện pháp bảo đảm trong các quan hệ này không thể là quyền nhân thân. Quyền nhân thân là quyền gắn liền với mỗi cá nhân, đó là quyền không thể tách rời và chuyển giao cho người khác được. Ví dụ: Trong quan hệ vay nợ, lợi ích của bên cho vay sẽ không được bảo đảm khi tài sản bảo đảm là quyền nhân thân của người vay (như quyền đối với hình ảnh). Bởi vì, khi có sự vi phạm nghĩa vụ người cho vay không thể đem quyền về hình ảnh ra xử lý để thu hồi nợ. Hơn nữa, không thể dùng quyền nhân thân để thay thế quyền tài sản, quyền tài sản luôn bị chi phối bởi qui luật giá trị (qui luật ngang giá) một tài sản bị mất hoặc giảm sút giá trị chỉ có thể bù đắp, thay thế bằng một tài sản khác. Quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ chỉ có thể bảo đảm bằng các lợi ích vật chất. Do đó đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể là tài sản.
Tài sản bảo đảm có thể là vật, vật hiện có hoặc hình thành trong tương lai, giấy tờ có giá được bằng tiền, quyền tài sản … những tài sản này phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.
- Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính.
Khi giao kết hợp đồng, yếu tố đầu tiên để đạt sự thoả thuận, giao kết hợp đồng là sự tin tưởng, tín nhiệm của hai bên đối với nhau. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể có rất nhiều rủi ro, bất ngờ nảy sinh mà các bên hoàn toàn không dự liệu trước được, dẫn tới vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Do đó, một hợp đồng được giao kết không chỉ hoàn toàn dựa trên cơ sở lòng tin và sự tín nhiệm mà cần phải tìm cơ sở cho lòng tin đó, cơ sở đó là bên có nghĩa vụ sẽ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng chính tài sản của mình. Các biện pháp bảo đảm chỉ được đặt ra khi các bên tham gia giao dịch cần bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, đó là các biện pháp bổ sung cho thực hiện nghĩa vụ chính.
- Các biện pháp bảo đảm được thiết lập trên cơ sở thoả thuận (trừ trường hợp pháp luật có qui định khác).
Trong một giao dịch dân sự, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh khi các bên có thoả thuận, pháp luật dân sự không qui định một cách bắt buộc, cứng nhắc biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này phải áp dụng cho một giao dịch dân sự cụ thể nào đó. Việc lựa chọn các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng, có những trường hợp mà pháp luật qui định bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm. Ví dụ: Hợp đồng cho vay mà bên vay là Ngân hàng Nhà nước, biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp thế chấp. Nhưng dù pháp luật có qui định người vay phải có thế chấp thì quyền thoả thuận của các bên cũng không hề mất đi, các bên có thể cùng nhau thoả thuận về đối tượng, phương thức xử lý tài sản thế chấp …
- Phạm vi bảo đảm của các nghĩa vụ không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ chính.
Điều 319 Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005) qui định “nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc qui định của pháp luật. Nếu không có thoả thuận hoặc pháp luật không qui định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại”. Nghĩa vụ được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ có thể là nghĩa vụ hiện tại hay nghĩa vụ có điều kiện. Dù là nghĩa vụ nào đi chăng nữa thì giới hạn của bảo đảm luôn là toàn bộ nghĩa vụ.
Các bên trong quan hệ có thể thoả thuận phạm vi bảo đảm nhưng thoả thuận của các bên chỉ giới hạn trong toàn bộ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Phạm vi bảo đảm không thể vượt qua nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Nếu vượt quá có nghĩa là vi phạm pháp luật dân sự. Và sự thoả thuận của các bên không được pháp luật công nhận, biện pháp bảo đảm sẽ vô hiệu.
Một yếu tố nữa chi phối phạm vi bảo đảm đó là tính không phụ thuộc vào qui luật giá trị. Trong thực tế, cho dù người có nghĩa vụ đưa ra một tài sản bảo đảm có giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì các bên cũng không thể thoả thuận phạm vi bảo đảm bằng với giá trị tài sản. Bởi người có nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ đã xác định.
- Xử lý tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm chỉ được đưa ra xử lý khi có sự vi pham nghĩa vụ ( Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác ).
Bên có nghĩa vụ được coi là có sự vi phạm nghĩa vụ khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình gây ra thiệt hại cho bên có quyền. Biện pháp bảo đảm là biện pháp có chức năng dự phạt, đây là chức năng quan trọng, chức năng dự phạt có ý nghĩa dự báo trước hậu quả bên có nghĩa vụ phải chịu khi vi phạm nghĩa vụ. Hậu quả đó là tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được đưa ra xử lý. Tài sản bảo đảm sẽ được xử lý theo thoả thuận của các bên, nếu các bên không có thoả thuận thì tài sản sẽ được xử lý theo qui định pháp luật. Khi nghĩa vụ chính được thực hiện, tài sản bảo đảm sẽ được hoàn trả cho bên bảo đảm, biện pháp bảo đảm đương nhiên chấm dứt.
Các qui định về biện pháp bảo đảm giúp các bên tin tưởng vào nhau, thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các qui định về biện pháp bảo đảm ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn … Hiện nay trong hệ thống pháp luật hầu hết các nước đều có qui định các biện pháp bảo đảm như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh …
1.1.2 Các hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Điều 318 BLDS 2005 qui định các biện pháp bảo đảm bao gồm: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp. So với BLDS 1995, BLDS 2005 có một số qui định mới: Biện pháp tín chấp được tách ra thành một biện pháp bảo đảm độc lập, biện pháp phạt vi phạm không được qui định là biện pháp bảo đảm. Nói cách khác, theo qui định BLDS 2005 các biện pháp bảo đảm có hai hình thức thể hiện đó là: Biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo đảm đối nhân.
*Bảo đảm đối vật
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân là: Trong biện pháp bảo đảm đối vật bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng biện pháp bảo đảm mang tính chất tài sản. Bên có quyền có thể yêu cầu hoặc cùng với bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba thoả thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản .
Hai biện pháp bảo đảm đối vật điển hình đó là cầm cố và thế chấp tài sản. Điều 342 BLDS 2005 qui định “thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia mà không có sự chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Điều 326 BLDS 2005 qui định “Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Yếu tố tài sản là điểm khác biệt giữa hai hình thức bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật. Trong bảo đảm đối vật, bên có nghĩa vụ có thể dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc của người thứ ba để cầm cố hoặc thế chấp cho bên có quyền.
* Bảo đảm đối nhân
Trong hình thức bảo đảm đối nhân, nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đựợc bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba.
Điển hình của hình thức bảo đảm đối nhân đó là biện pháp tín chấp trong quan hệ tín dụng và biện pháp bảo lãnh. Biện pháp bảo đảm bằng tín chấp là biện pháp bảo đảm dựa trên cơ sở niềm tin, uy tín của các bên trong quan hệ. Bên có nghĩa vụ có thể bằng uy tín của mình hoặc của người thứ ba để có được sự tin tưởng của bên có quyền. Các bên trong quan hệ cũng không cần thoả thuận về việc bên có nghĩa vụ phải bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình bằng một tài sản cụ thể nào cả. Điều 361 BLDS 2005 quy định “Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với người có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ”.
Sự phân biệt giữa hai hình thức bảo đảm này tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho các bên khi lựa chọn biện pháp bảo đảm phù hợp cho từng giao dịch dân sự.
1.2 Khái quát chung về thế chấp tài sản
1.2.1 Khái niệm, đăc trưng của biện pháp thế chấp tài sản
* Khái niệm biện pháp thế chấp tài sản
Trong đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn là một nhu cầu cần thiết. Do đó, quan hệ vay tài sản là một quan hệ không thể thiếu và tương đối phổ biến. Quan hệ vay tài sản là loại quan hệ chứa đựng rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng lợi ích của các bên trong quan hệ. Vì vậy, khi xác lập quan hệ này, điều đầu tiên các bên quan tâm đó là lợi ích của mình sẽ được bảo đảm như thế nào và trong trường hợp này, thế chấp tài sản được coi là chiếc cầu nối không thể thiếu được, lợi ích của bên có quyền sẽ được bảo đảm bởi tài sản thế chấp của bên có nghĩa vụ.
Do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh mà việc giao tài sản bảo đảm cho bên có quyền nắm giữ không những ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất kinh doanh của bên có nghĩa vụ mà quyền lợi của bên có quyền cũng không được bảo đảm một cách tốt nhất. Vấn đề đặt ra là lựa chọn biện pháp bảo đảm nào vừa bảo đảm lợi ích của bên có quyền và vừa duy trì được sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ được bảo đảm ở mức độ cao. Biện pháp thế chấp là biện pháp có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên. Bên thế chấp không phải giao tài sản thế chấp cho bên có quyền mà chỉ chuyển giao giấy tờ chứng nhận quyền tài sản và giấy tờ khác là điều kiện chuyển nhượng tài sản cho bên nhận thế chấp. Mặc dù bên thế chấp vẫn là người quản lý tài sản nhưng không thể định đoạt tài sản vì giấy tờ pháp lý để giao dịch, chứng minh quyền sở hữu tài sản đó, bên có quyền đang nắm giữ.
Trong các quan hệ tín dụng, biện pháp thế chấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì ngân hàng sẽ chỉ cấp tín dụng cho khách hàng nếu họ có tài sản thế chấp.
Từ sự phân tích ở trên có thể hiểu, thế chấp tài sản là sự thoả thuận của các bên hoặc theo qui định pháp luật. Theo đó bên có nghĩa vụ dùng tài sản của mình hoặc của người thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ nhưng không chuyển giao tài sản cho bên có quyền.
Pháp luật dân sự hiện hành qui định “Thế chấp tài sản là việc bên thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận thế chấp và không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp” (Điều 342 BLDS 2005 ).
Cụ thể, trong quan hệ vay tài sản, thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ, có thể hiểu là việc bên vay đem tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm cho khoản vay và không chuyển giao tài sản đó cho bên vay.
* Đặc trưng của biện pháp thế chấp
- Thứ nhất: không có sự chuyển giao tài sản.
Đây là một đặc trưng riêng biệt của biện pháp thế chấp. Trong thế chấp tài sản, bên thế chấp không phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp mà vẫn trực tiếp nắm giữ tài sản đó, bên thế chấp chỉ phải chuyển giao các giấy tờ pháp lý (như giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản). Trong một số trường hợp nếu các bên có thoả thuận thì tài sản thế chấp có thể giao cho người thứ ba quản lý. Đây là điểm khác biệt với cầm cố. Trong quan hệ cầm cố, tài sản bảo đảm phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố quản lý và nắm giữ.
Sự không chuyển giao tài sản không hề ảnh hưởng tới quyền lợi của bên nhận thế chấp hay nói cách khác quyền định đoạt đối với tài sản thế chấp củ