Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố liên quan đến thị hiếu và thái độ của người tiêu
dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm thủy sản chế biến. Với 233 mẫu khảo sát, nghiên
cứu đã cho thấy lý do chính khiến người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm
thủy sản chế biến trong tương lai với các nhận định sau: thời gian nấu nướng trong tương
lai sẽ bị hạn chế hơn (62.9%), sản phẩm sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48,3%)
và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30,9%). Trong 95% người tiêu
dùng tại TP.HCM tiếp tục sử dụng sản phẩm thủy sản chế biến, 11% cho rằng sẽ sử dụng
các sản phẩm này nhiều hơn khi thu nhập tăng lên.
16 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 85195 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị hiếu và thái độ của người tiêu dùng khu vực thành phố Hồ Chí Minh đối với sản phẩm thủy sản chế biến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỊ HIẾU VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI SẢN PHẨM THỦY SẢN CHẾ BIẾN
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố liên quan đến thị hiếu và thái độ của người tiêu
dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm thủy sản chế biến. Với 233 mẫu khảo sát, nghiên
cứu đã cho thấy lý do chính khiến người tiêu dùng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục dùng sản phẩm
thủy sản chế biến trong tương lai với các nhận định sau: thời gian nấu nướng trong tương
lai sẽ bị hạn chế hơn (62.9%), sản phẩm sẽ đa dạng hơn, đáp ứng yêu cầu tốt hơn (48,3%)
và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hơn trong tương lai (30,9%). Trong 95% người tiêu
dùng tại TP.HCM tiếp tục sử dụng sản phẩm thủy sản chế biến, 11% cho rằng sẽ sử dụng
các sản phẩm này nhiều hơn khi thu nhập tăng lên.
Từ khóa: thị hiếu, thái độ, sản phẩm thủy sản chế biến.
ABSTRACT
Preference and attitude of consumers in HCMC for processed aquatic products
The aim of this study is to identify factors related to preference and attitudes of con-
sumers in Ho Chi Minh City for processed aquatic products. Of 233 survey samples, the
study found some main reasons why consumers think they will continue to use processed
aquatic products in the future as the following comments: cooking time in the future will
be more limited (62.9%), products will be more diverse, (easier to) better meet the hy-
giene requirements (48.3%), food safety in the future (30.9%), and consumers think that
they will use many products as incomes rise in the future (11%).
Key words: preference, attitude, processed aquatic product.
Nguyễn Minh Đức*, Đặng Thanh Liêm**
* PGS.TS, Trường ĐH Văn Hiến
** ThS, Trường ĐH Văn Hiến
1. Khái quát
Nước ta với hệ thống sông ngòi dày đặc và
có đường biển dài hơn 3.260km, nên rất thuận
lợi phát triển hoạt động khai thác và nuôi trồng
thủy sản. Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy trì
tăng trưởng liên tục trong 17 năm qua với mức
tăng bình quân là 9,07%/năm. Với chủ trương
thúc đẩy phát triển của chính phủ, hoạt động
nuôi trồng thủy sản đã có những bước phát triển
mạnh, sản lượng liên tục tăng cao trong các năm
qua, bình quân đạt 12,77%/năm, đóng góp đáng
kể vào tăng trưởng tổng sản lượng thủy sản của
cả nước. Việt Nam đứng thứ tư thế giới về kim
ngạch xuất khẩu thủy sản, và đứng thứ hai thế
giới có số nhà máy chế biến thủy sản quy mô
công nghiệp đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khắt
khe khi xuất khẩu. Tuy nhiên, thị trường nội địa
hiện đang chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu
doanh thu của hầu hết các doanh nghiệp thủy
sản (chưa tới 5%). Ở thị trường nội địa hơn 90
triệu dân với mức tiêu thụ thủy sản lên đến 27
kg/người/năm, các doanh nghiệp thủy sản lại bỏ
ngỏ cung ứng, bỏ bê an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong thời gian qua một vài doanh nghiệp đạt
mức tăng trưởng cao, nhưng hầu hết các doanh
nghiệp thủy sản đều không chú trọng phát triển,
mở rộng thị trường nội địa. Theo dự báo của
Trung tâm Tư vấn và Quy hoạch phát triển thủy
sản, giai đoạn 2011-2020, giá trị thủy sản chế
biến tiêu thụ nội địa sẽ tăng bình quân 5,37%/
năm. Mức tiêu thụ trong nước năm 2015 được
dự báo là 790.000 tấn, năm 2020 là 940.000 tấn.
Trong đó, sản phẩm thủy sản đông lạnh chiếm
trên 30%. Từ những thực tế trên, các tác giả thực
hiện nghiên cứu về thị hiếu và thái độ của người
tiêu dùng khu vực TP.HCM đối với sản phẩm
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
14 SỐ 09 - THÁNG 11/2015
thủy sản chế biến để phát triển lĩnh vực đầy tiềm
năng này.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Sản phẩm và phân loại sản phẩm
Kotler và Armstrong (2011) định nghĩa “sản
phẩm là mọi thứ có thể được đưa ra thị trường
để thu hút sự chú ý, tiếp nhận, sử dụng, hoặc
tiêu thụ và có khả năng thỏa mãn một nhu cầu/
đòi hỏi nào đó”. Theo đó, sản phẩm gồm có 3
cấp độ: (i) Giá trị khách hàng cốt lõi, (ii) Sản
phẩm thực thụ và (iii) Sản phẩm được gia tăng
giá trị. Trong đó:
- Cấp độ căn bản nhất là giá trị khách hàng
cốt lõi, là cái mà người mua thực sự mua, là
những lợi ích chính yếu hoặc khả năng sản
phẩm giúp họ giải quyết vấn đề của mình.
- Cấp độ thứ hai là khi lợi ích cốt lõi biến
thành sản phẩm thực thụ với các thành phần
đặc điểm cụ thể mà người mua có thể cảm nhận
bằng các giác quan của mình, bao gồm: đặc tính
nổi bật, thiết kế/ kiểu dáng, bao bì, chất lượng,
tên thương hiệu.
- Cấp độ cuối cùng là khi sản phẩm được
gia tăng giá trị bằng các dịch vụ và lợi ích gia
tăng cho người tiêu dùng, bao gồm: dịch vụ hậu
mãi, bảo hành, hỗ trợ sản phẩm, giao nhận và
tín dụng.
Sản phẩm được phân vào hai nhóm lớn dựa
trên phân loại người sử dụng, gồm có sản phẩm
tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp. Trong đó:
(i) Sản phẩm tiêu dùng là sản phẩm được
mua bởi người tiêu dùng cuối cùng cho mục
đích cá nhân, thường được phân loại nhỏ hơn
dựa trên cách người tiêu dùng mua chúng, bao
gồm sản phẩm tiện ích, sản phẩm mua sắm, sản
phẩm chuyên biệt và sản phẩm không được tìm
đến.
(ii) Sản phẩm công nghiệp là sản phẩm được
mua để xử lý hoặc để sử dụng nhằm thực hiện
công việc kinh doanh. Do đó, khác biệt giữa một
sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp là
dựa trên mục đích mua sản phẩm.
2.2. Thái độ và các thành phần của thái độ
Thái độ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá
thể, được hình thành trên cơ sở những tri thức
hiện có và bền vững về một khách thể hay ý
tưởng nào đó, những cảm giác do chúng gây ra
và phương hướng hành động có thể có. Trong số
các mô hình về thái độ, mô hình của Schiffman
và Kanuk (2000) được sử dụng rất phổ biến,
mô hình thái độ này gồm có ba thành phần cơ
bản là: nhận thức, cảm xúc và xu hướng hành
vi. Trong đó, thành phần nhận thức nêu lên sự
nhận biết, kiến thức của người tiêu dùng về một
sản phẩm nào đó. Nhận biết thể hiện ở dạng
tin tưởng, hay nói cách khác người tiêu dùng
tin rằng sản phẩm đó có những đặc trưng mà
họ mong đợi. Thành phần cảm xúc đề cập mức
độ hài lòng hay không hài lòng, yêu thích hay
không yêu thích, thể hiện ở sự đánh giá. Người
tiêu dùng sẽ đánh giá sản phẩm đó ở dạng tốt
xấu, thân thiện, ác cảm Và thành phần xu
hướng hành vi nêu lên xu hướng, dự định hành
động của người tiêu dùng đối với sản phẩm theo
hướng đã có nhận thức và cảm xúc. Ví dụ khi
người tiêu dùng nhận biết được thực phẩm chế
biến sẵn sẽ mang đến sự tiện lợi khi sử dụng và
có đánh giá tốt về mặt hàng này sẽ có xu hướng
mua sản phẩm đó về sử dụng.
2.3. Hành vi người tiêu dùng
Hành vi của người tiêu dùng là một lĩnh vực
nghiên cứu rất phức tạp bao gồm các nghiên
cứu về thái độ, hành động, phản ứng của người
tiêu dùng. Tuy nhiên, nó lại giúp cho các doanh
nghiệp có thể xác định và dự đoán chính xác
hành vi của người tiêu dùng để từ đó xây dựng
các chiến lược kinh doanh phù hợp. Hành vi
người tiêu dùng được xác định là: (1) Những
hành động của con người trước, trong và sau
khi mua sắm và tiêu dùng, (2) Hành vi người
tiêu dùng có tính năng động và tương tác, nó
chịu sự tác động từ môi trường và cũng có tác
động ngược trở lại đối với môi trường ấy.
Hoạt động nghiên cứu hành vi của người
tiêu dùng không chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu
những hành động riêng lẻ, cụ thể của người
tiêu dùng thực hiện trong quá trình mua sắm,
tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ mà còn được mở
rộng theo hướng tìm hiểu xu hướng thái độ của
người tiêu dùng.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi
mua của người tiêu dùng
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua của
người tiêu dùng được chia làm bốn nhóm: các
ảnh hưởng xã hội, các ảnh hưởng cá nhân, các
ảnh hưởng marketing và các ảnh hưởng vị trí.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
15SỐ 09 - THÁNG 11/2015
Các yếu tố xã hội: Tầng lớp xã hội, văn hóa
và ảnh hưởng nhóm tiêu dùng có ảnh hưởng đến
mua hàng và quyết định mua hàng. Những ảnh
hưởng này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tiến trình mua hàng.
- Văn hóa là một trong những nhân tố cơ bản
nhất ảnh hưởng đến nhu cầu, mong muốn và
hành vi của người tiêu dùng.
- Tầng lớp xã hội dựa trên sự giàu có, kỹ năng
và năng lực con người. Sự khác biệt về tầng lớp
xã hội biểu hiện ở những hành xử và những giá
trị khác nhau mà những hành xử và những giá trị
này ảnh hưởng đến hành vi của những cá nhân
của nhóm tầng lớp đó.
- Nhóm tham khảo bao gồm người thân và
bạn bè, trong tổ chức hay những khuyến cáo
từ chuyên gia. Nhóm tham khảo có ảnh hưởng
mạnh hơn đối với những sản phẩm đại chúng,
những sản phẩm mà sử dụng thì những người
khác thấy được, giống như quần áo, xe cộ.
Các yếu tố thuộc về cá nhân: Kotler và Arm-
strong (2011, tr.177) cho rằng “Quyết định của
người mua cũng bị chi phối bởi các yếu tố cá
nhân, như tuổi tác và giai đoạn trong vòng đời,
nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, phong cách sống,
tính cách và sự nhận thức về bản thân”. Trong
đó:
- Tuổi tác và giai đoạn trong vòng đời: thói
quen mua sắm hàng hóa và sử dụng dịch vụ của
con người thay đổi qua thời gian, hành vi mua
hàng vì thế cũng thay đổi theo.
- Nghề nghiệp: nghề nghiệp của người tiêu
dùng ảnh hưởng đến sản phẩm và dịch vụ mà họ
mua bởi vì nhu cầu liên quan đến nghề nghiệp là
khác nhau.
- Điều kiện kinh tế: điều kiện kinh tế của một
cá nhân sẽ quyết định đến sản phẩm cũng như
cửa hàng mà người đó lựa chọn.
- Phong cách sống: những người có cùng địa
vị và tầng lớp xã hội hay nghề nghiệp vẫn có thể
có phong cách sống hoàn toàn khác nhau. Phong
cách sống nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng
của người tiêu dùng, bao gồm: Hành động (việc
làm, thói quen, mua sắm, hoạt động thể thao,
hoạt động xã hội), Sở thích (ăn uống, thời trang,
gia đình, giải trí) và Quan điểm (về bản thân, các
vấn đề xã hội, công việc, kinh doanh, sản phẩm).
Tất cả đều có tác động đến hành vi mua hàng vì
thứ mà người tiêu dùng mua không chỉ là sản
phẩm, mà còn là giá trị cũng như phong cách
sống mà sản phẩm này đại diện.
- Tính cách và sự tự nhận thức: tính cách là
những đặc điểm tâm lý để phân biệt một cá nhân,
là nét đặc trưng của mỗi người nên sẽ ảnh hưởng
đến hành vi mua hàng của người đó.
Các yếu tố marketing: Mỗi yếu tố marketing
mix (sản phẩm, giá cả, phân phối, chiêu thị) có
thể ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng theo
nhiều cách khác nhau:
- Sản phẩm: nhiều thuộc tính của sản phẩm
như: thương hiệu, chất lượng, tính mới mẻ, thời
hạn sử dụng có thể ảnh hưởng đến hành vi tiêu
dùng.
- Giá cả: giá cả sản phẩm hay dịch vụ thường
ảnh hưởng đến quyết định mua hàng dù cho
người mua hàng có quan tâm hay không. Đôi khi
người tiêu dùng cho rằng giá đắt liên quan đến
hàng chất lượng cao.
- Phân phối: phân phối sản phẩm ảnh hưởng
đến người tiêu dùng bằng nhiều cách. Gia tăng
khả năng có được sản phẩm đồng nghĩa với việc
gia tăng cơ hội người tiêu dùng có thể tìm thấy và
mua hàng. Những sản phẩm bán độc quyền trong
những cửa hàng riêng biệt cũng có thể được cảm
nhận là những sản phẩm có chất lượng cao.
- Chiêu thị: quảng cáo, khuyến mãi bán hàng,
người bán hàng và các hoạt động truyền thông
có thể ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng hướng
đến một sản phẩm riêng biệt nào đó. Những biện
pháp truyền thông này là công cụ hữu hiệu để
thông tin với người tiêu dùng, nơi mua hàng và
tạo ra cảm nhận cũng như hình ảnh mong muốn
về hàng hóa hay dịch vụ.
Các yếu tố vị trí mua hàng: Những ảnh hưởng
vị trí mua hàng bao gồm các nhân tố cụ thể về
thời gian và nơi quan sát thấy mà ở đó sự hiện
diện và trưng bày hệ thống ảnh hưởng đến hành
vi hiện tại của người tiêu dùng. Vị trí có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến hành vi mua hàng nhưng
cũng có thể chỉ tác động đến các yếu tố thuộc về
hành vi. Ảnh hưởng của vị trí được chia thành
năm loại:
- Yếu tố vật chất xung quanh bao gồm địa
điểm hiện trạng và địa lý, thiết kế, âm thanh, mùi
vị, ánh sáng đèn, thời tiết và trưng bày hàng hóa
hoặc các phụ liệu quảng cáo.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
16 SỐ 09 - THÁNG 11/2015
- Yếu tố xã hội xung quanh bao gồm những
thể hiện của những người khác mà có thể ảnh
hưởng đến hành vi của người mua hàng.
- Bối cảnh thực tế nơi mua hàng ảnh hưởng
đến hành vi mua hàng. Nó có thể từ thời gian
mua hàng trong ngày cho đến mua trong năm.
- Khái niệm về bổn phận liên quan đến mục
đích hay những lý do có sự cam kết (trung thành)
ở nơi mà người mua hàng tới mua.
- Tình thế trước đó lôi cuốn người tiêu dùng
mà trước đó họ chưa trải qua hoặc tồn tại. Những
điều kiện hay tâm trạng xảy ra tức thời hay tạm
thời.
2.5. Các mô hình hành vi người tiêu dùng
Mô hình quá trình cảm nhận
Cảm nhận là quá trình mà con người lựa chọn,
tổ chức và giải thích thông tin để định dạng bức
tranh mang ý nghĩa về những gì xảy ra chung
quanh. Con người có thể có cảm nhận khác nhau
với cùng một kích tác vì khác biệt đó có thể xảy
ra ở một trong 3 bước của quá trình cảm nhận,
gồm: chú ý có chọn lọc, bóp méo có chọn lọc và
lưu giữ có chọn lọc. Để nghiên cứu sâu hơn về
cảm nhận, Horward & Sheth (1969) đã trình bày
mô hình giản lược hành vi người mua trong đó
đi sâu vào xem xét hộp đen người mua như sau:
Ở đây Horward & Sheth (1969) muốn chỉ ra
rằng: mỗi sự cảm nhận của con người về kích
tác sẽ qua quá trình cảm nhận để trở thành kiến
thức mà người mua học được. Những kiến thức
này có thể ảnh hưởng ngược trở lại cảm nhận của
người mua ở lần sau khi tiếp xúc với kích tác cũ,
có thể điều chỉnh cảm nhận về kích tác.
Mô hình hành vi mua hàng
Hàng ngày người tiêu dùng đưa ra rất nhiều
quyết định mua hàng, và quyết định mua hàng
chính là tâm điểm cho những nỗ lực của chuyên
gia tiếp thị. Câu hỏi trung tâm của các nhà làm
marketing là: Khách hàng đáp ứng như thế nào
đối với các nỗ lực mà công ty sử dụng? Kotler
& Amstrong (2011) đã giới thiệu mô hình kích
thích - đáp ứng của hành vi mua hàng.
Các kích thích marketing bao gồm bốn biến
số của phối thức marketing là sản phẩm, giá,
phân phối và chiêu thị. Những kích thích khác
bao gồm những nhân tố và hiện tượng trong môi
trường xung quanh khách hàng như môi trường
kinh tế, công nghệ, chính trị và văn hóa. Tất cả
những yếu tố này là đầu vào được xử lý trong hộp
đen của khách hàng và đưa ra các đáp ứng của
khách hàng mà chúng ta có thể dễ dàng quan sát
được: lựa chọn sản phẩm, nhãn hiệu, nhà cung
ứng, thời gian mua và số lượng mua. Và cách
thức mà các kích thích được chuyển hóa thành
phản ứng trong hộp đen của người tiêu dùng là
một quy trình gồm 2 phần. (1) các đặc điểm của
người mua ảnh hưởng đến cách mà người đó
cảm nhận và phản ứng lại với kích thích. (2) bản
thân quy trình quyết định của người mua cũng
tác động đến hành vi của người đó.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
17SỐ 09 - THÁNG 11/2015
Tiến trình quyết định mua hàng
Để đi đến hành động mua hàng, người tiêu
dùng phải trải qua một tiến trình bao gồm năm
giai đoạn như sau: Nhận diện nhu cầu: người
tiêu dùng bắt đầu tiến trình ra quyết định với giai
đoạn nhận diện nhu cầu. Đó chính là sự khác
biệt giữa trạng thái thực tế (những gì mà người
tiêu dùng đang cảm nhận tồn tại) và trạng thái
mong muốn (những gì mà người tiêu dùng muốn
có. Tìm kiếm thông tin: từ hai nguồn thông tin
sẵn có bên trong và thu thập bên ngoài. Trong
đó thông tin bên trong thường có sẵn trong trí
nhớ, từ những lần thu thập thông tin trước đây
hoặc từ những học hỏi và kinh nghiệm. Thông
tin bên ngoài bao gồm các nguồn thông tin từ
quan hệ cá nhân bản thân người tiêu dùng có
được từ bạn bè, người thân hoặc những thông
tin độc lập từ những nhóm người tiêu dùng trong
xã hội, những nguồn thông tin tiếp thị (người
tiếp thị, quảng cáo) và những nguồn thông tin
có được từ kinh nghiệm (dùng thử hay xem xét
sản phẩm trước đó). Đánh giá các lựa chọn:
bước này bao gồm những đánh giá sự thay thế
giữa các lựa chọn khác nhau. Sau khi đánh giá,
người tiêu dùng tiến hành ra quyết định theo một
luật nào đó và lựa chọn sự thay thế. Những đánh
giá này là rất phức tạp và khác nhau với những
người tiêu dùng khác nhau và cũng tùy thuộc vào
trạng thái lúc quyết định. Quyết định mua hàng:
việc mua hàng bao gồm các quyết định về kiểu
hàng hóa, thương hiệu, lựa chọn cửa hàng mua,
thời gian mua hàng, số lượng mua, phương thức
thanh toán Ứng xử sau khi mua hàng: sau khi
thực hiện quyết định mua hàng, người tiêu dùng
tiếp tục đánh giá dựa trên mức độ thỏa mãn hay
không thỏa mãn với sản phẩm hay dịch vụ họ đã
sử dụng.
Mô hình tiêu dùng thực phẩm
Mô hình các yếu tố quyết định hành vi tiêu
dùng thực phẩm đã được đề xuất trong nhiều
nghiên cứu. Một trong những mô hình sớm nhất
và có ảnh hưởng nhất được đề xuất bởi Pilgrim
(1957, trích bởi Jan-Benedict, 1993) cho rằng
tiêu thụ thực phẩm phụ thuộc vào nhận thức.
Nhận thức về thực phẩm là một chức năng của
ba yếu tố: (1) tác dụng sinh lý của thực phẩm,
(2) nhận thức của các thuộc tính cảm giác, và
(3) ảnh hưởng từ môi trường. Pilgrim đưa ra giả
thuyết rằng những yếu tố này sẽ tương tác và
ảnh hưởng đến tiêu thụ thực phẩm, nhưng ông
đã không khám phá những mối tương quan này.
Shepherd (1990, trích bởi Menrad, 2006) cho
rằng sự lựa chọn thực phẩm là một hành vi phức
tạp của con người ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
liên quan đến nhau. Thông thường có ba yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình quyết định lựa chọn
thực phẩm của người tiêu dùng: (1) những thuộc
tính của thực phẩm, (2) những yếu tố liên quan
đến con người và (3) những yếu tố từ môi trường
mua. Ngoài ra Shepherd cũng đề cập tới vai trò
của truyền thông được tích hợp và đặt ở vị trí
trung tâm của mô hình, bởi vì giao tiếp có liên
quan với cả ba yếu tố trên. Tất cả chúng đều ảnh
hưởng đến quá trình ra quyết định của người tiêu
dùng và kết hợp với nhau hình thành nên cơ sở
của mô hình lựa chọn thực phẩm tổng quát.
Mặc dù một số sự khác biệt có thể được quan
sát thấy giữa các mô hình này, chúng thường
phân biệt giữa ba loại yếu tố quyết định: (1) Tính
chất của thực phẩm bao gồm các tính chất vật
lý và hóa học, và hàm lượng dinh dưỡng, chẳng
hạn như hình thức vật lý, tỷ lệ chất dinh dưỡng,
lượng chất xơ, giá trị năng lượng, và lượng chất
cụ thể (đường, muối, gia vị, vv.) Các tính chất
thực phẩm ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng thực
phẩm thông qua sinh lý (ví dụ, đói, thoả mãn, sự
thèm ăn) và hiệu ứng cảm giác, (2) Các yếu tố
liên quan đến người tham gia tiêu thụ thực phẩm
bao gồm các yếu tố sinh học (ví dụ, tuổi tác, giới
tính, trọng lượng cơ thể), các yếu tố tâm lý, và cá
tính, (3) Các yếu tố môi trường bao gồm văn hóa
xã hội, các yếu tố kinh tế, và tiếp thị.
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp định tính và định lượng
trong nghiên cứu, bằng cách thiết lập các câu hỏi
mở, câu hỏi dài, câu hỏi gây tranh luận nhằm
thu thập nguồn dữ liệu bằng chữ, mô tả, đánh
giá, phân tích đặc điểm mục tiêu cần hướng đến.
Đồng thời kết hợp hệ thống câu hỏi soạn sẵn,
nhanh, nhỏ, ngắn gọn, xúc tích, có sự lựa chọn
nhằm tiếp cận thông tin dữ liệu bằng số và giải
quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo
quan điểm diễn dịch.
Các dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý
bằng Excel và phần mềm SPSS. Sau khi mã hóa
và làm sạch, dữ liệu sẽ được đưa vào xử lý và
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
18 SỐ 09 - THÁNG 11/2015
STT Phương pháp phân tích Chủ đề
1 Mô tả Phân bố mẫu
Thái độ của người tiêu dùng đối với SP (nhận thức, xu hướng hành vi)
2 Khác biệt và quan hệ Sự khác biệt thái độ theo giới tính, độ tuổi, thu nhập
Tương quan giữa các biến
phân tích để mô tả thái độ và hành vi tiêu dùng
của khách hàng đối với sản phẩm thủy sản qua
các công cụ phân tích như Bảng 1.
3.1. Kích thước mẫu
Để đảm bảo ý nghĩa thống kê, nguyên tắc
chọn mẫu đầu tiên được tuân thủ là kích thước
tối thiểu của mẫu không được phép nhỏ hơn 30
đơn vị nghiên cứu, đồng thời đảm được một
kích thước mẫu sao cho những thông tin thu
thập thực trạng tiêu dùng sản phẩm đủ để đại
diện và suy rộng cho cả tổng thể. Nghiên cứu
này sử dụng phép chọn không lặp, với yêu cầu
mức độ tin cậy (t) là 99,7%, với giá t