Theo Luật kinh doanh Bảo hiểm số 24/2000/QH10, BHTM ( còn được 
gọi là Bảo hiểm rủi ro hoặc Bảo hiểm kinh doanh) là một thỏa thuận, qua đó, 
bên tham gia Bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp Bảo hiểm một khoản 
tiền gọi là phí Bảo hiểm; ngược lại, doanh nghiệp Bảo hiểm cũng cảm kết sẽ 
chi trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được Bảo hiểm xảy ra 
gây tổn thất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 10405 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường Bảo hiểm Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Thị trường Bảo hiểm Thương mại 
Việt Nam 
Mục lục: 
PhầnI: Lý luận chung 
I. Khái niệm 
II. Phân loại 
III. Nguyên tắc hoạt động 
IV. Hợp đồng Bảo hiểm Thương mại 
V. Tái Bảo hiểm Thương mại 
Phần II: Thực trạng thị trường Bảo hiểm 
thương mại ở Việt Nam 
I. Quá trình hình thành và phát triển Bảo hiểm ở Việt Nam 
II. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam 
III. Các tổ chức kinh doanh Bảo hiểm ở Việt Nam 
IV. Khó khăn và hạn chế của Bảo hiểm Thương mại 
V. Giải pháp hoàn thiện thị trường Bảo hiểm Thương mại ở Việt Nam 
2 
I. Khái niệm: 
Theo Luật kinh doanh Bảo hiểm số 24/2000/QH10, BHTM ( còn được 
gọi là Bảo hiểm rủi ro hoặc Bảo hiểm kinh doanh) là một thỏa thuận, qua đó, 
bên tham gia Bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp Bảo hiểm một khoản 
tiền gọi là phí Bảo hiểm; ngược lại, doanh nghiệp Bảo hiểm cũng cảm kết sẽ 
chi trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được Bảo hiểm xảy ra 
gây tổn thất. 
II. Phân loại : 
1. Phân loại theo phương thức quản lý 
- Bảo hiểm tự nguyện : Việc tham gia Bảo hiểm hay không phụ thuộc vào 
nhận thức và nhu cầu của người tham gia Bảo hiểm. Các doanh nghiệp Bảo 
hiểm có đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, 
trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của công ty đó, 
- Bảo hiểm bắt buộc: bao gồm các sản phẩm Bảo hiểm mà luật pháp có 
những quy định về điều kiện Bảo hiểm, mức phí Bảo hiểm, số tiền tối thiểu 
mà tổ chức, cá nhân tham gia Bảo hiểm và các doanh nghiệp Bảo hiểm có 
nghĩa vụ phải thực hiện. Ví dụ như Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) 
chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người lao động. 
2. Phân loại theo kỹ thuật Bảo hiểm 
- Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là Bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường 
là một năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc 
lập với tuổi thọ của con người. Vì thế còn được gọi là Bảo hiểm phi nhân 
thọ. 
- Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích : có đặc trưng là thời gian dài, quỹ được 
tích tụ nhiều năm mới được sử dụng để chi trả, thường đảm bảo cho các rủi 
3 
ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường gắn liền 
với tuổi thọ con người. 
3. Phân loại theo đối tượng được Bảo hiểm 
- Bảo hiểm tài sản : Đây là loại Bảo hiểm mà đối tượng là tài sản ( cố định 
hay lưu động của người được Bảo hiểm. Ví dụ: Bảo hiểm cho thiệt hại vật 
chất xe cơ giới, Bảo hiểm hàng hóa của các chủ hàng trong Bảo hiểm hàng 
hóa xuất nhập khẩu, Bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong Bảo hiểm trộm 
cắp. 
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: có đối tượng Bảo hiểm là trách nhiệm dân 
sự của người được Bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví dụ: 
BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động … 
- Bảo hiểm con người có đối tượng được Bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng , 
tình trạng sức khỏe của con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống 
và có ảnh hưởng tới cuộc sống của con người. 
III. Các nguyên tắc hoạt động trong Bảo hiểm Thương mại (BHTM) 
1. Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít 
Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh 
lợi, trong đó doanh nghiệp Bảo hiểm nhận các khoản tiền gọi là phí Bảo 
hiểm từ người tham gia Bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả khoản tiền 
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được Bảo hiểm. 
Xét trên khía cạnh với một người tham gia Bảo hiểm, khoản tiền chi trả 
hoặc bồi thường này lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí đóng Bảo hiểm. 
Chính vì vậy nguyên tắc quan trọng nhất đó là hoạt động BHTM phải dựa 
trên nguyên tắc: SỐ ĐÔNG BÙ SỐ ÍT – tức là rủi ro xảy ra đối với một 
4 
hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều 
người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy. 
2. Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được Bảo hiểm 
Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm dựa trên nguyên tắc bù đắp thiệt 
hại tài chính cho người tham gia Bảo hiểm và luôn theo đuổi mục tiêu lợi 
nhuận, chính vì vậy không phải với bất kì loại rủi ro nào, doanh nghiệp Bảo 
hiểm cũng chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. 
Người ta phân chia ra làm 2 loại rủi ro dựa trên tính chất, nguyên nhân 
gây ra rủi ro và tính chất đồng nhất của rủi ro. 
- Rủi ro có thể được Bảo hiểm: là những rủi ro bất ngờ, không lường 
trước được. Nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được Bảo hiểm là nguyên nhân 
khách quan và không cố ý. 
- Rủi ro không được Bảo hiểm: là những rủi ro đã xảy ra, chắc chắn 
hoặc gần như chắc chắn xảy ra như hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt 
thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử. 
Nguyên nhân gây ra những rủi ro không được Bảo hiểm là nguyên nhân chủ 
quan và do sự cố ý của người được Bảo hiểm. 
Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ chấp nhận bồi thường các rủi ro có thể 
Bảo hiểm và từ chối Bảo hiểm trong các trường hợp rủi ro không được Bảo 
hiểm. 
Để đảm bảo nguyên tắc này, trong đơn Bảo hiểm luôn có các rủi ro loại 
trừ tùy thuộc vào từng nghiệp vụ Bảo hiểm khác nhau. 
Đối với các rủi ro được Bảo hiểm lại được sắp xếp, phân loại và áp dụng 
các mức phí thích hợp. Thông thường đối với các rủi ro có mức xác suất lớn 
hơn, mức phí đóng sẽ là lớn hơn. 
5 
Nguyên tắc rủi ro có thể Bảo hiểm: 
- Tránh cho doanh nghiệp Bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất 
thấy trước mà nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản. 
- Giúp các doanh nghiệp tính được các mức phí chính xác, trên cơ sở đó 
giúp cho hoạt động bảo hiểm diễn ra dễ dàng hơn, đem lại nguồn lợi lớn cho 
xã hội trên cơ sở chia sẻ rủi ro cho cả cộng đồng. 
- Đảm bảo công bằng giữa những người tham gia Bảo hiểm. 
3. Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro 
Điểu quan trọng nhất trong hoạt động của các doanh nghiệp Bảo hiểm đó 
là khả năng chi trả bảo hiểm trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Trên thực tế 
việc thu phí Bảo hiểm trên nguyên tắc số đông bù số ít và chỉ áp dụng đối 
với các loại rủi ro được Bảo hiểm đôi khi vẫn không đảm bảo được khả năng 
này của doanh nghiệp Bảo hiểm trong các trường hợp sau: 
- Giá trị Bảo hiểm là rất lớn trong khi quy mô doanh nghiệp Bảo hiểm 
nhỏ hoặc mới thành lập nên quỹ Bảo hiểm chưa huy động được nhiều. 
- Các rủi ro liên tiếp, đồng loạt cùng xảy ra khiến cho doanh nghiệp 
Bảo hiểm phải chi trả nhiều cho người tham gia bảo hiểm. 
Một điều thận trọng trong hoạt động của DNBH đó là không nhận những 
rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên tránh tình 
trạng từ chối các hợp đồng Bảo hiểm này, các DNBH sẽ sử dụng nguyên tắc 
phân tán rủi ro theo 2 cách . 
- Đồng Bảo hiểm: nhiều doanh nghiệp Bảo hiểm tham gia Bảo hiểm 
cho cùng một hợp đồng Bảo hiểm. 
- Tái Bảo hiểm: Một doanh nghiệp Bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi 
ro lớn, sau đó nhượng lại 1 phần rủi ro cho một hoặc nhiều doanh nghiệp 
Bảo hiểm khác. 
6 
4. Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối 
Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm và người được Bảo hiểm phải tuyệt 
đối thành thật với nhau, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Hợp 
đồng Bảo hiểm sẽ không còn hiệu lực nếu chỉ cần một trong hai bên vi 
phạm. Hai bên trong hợp đồng Bảo hiểm có bổn phận khai báo đầy đủ và 
chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan, dù được yêu cầu hay 
không được yêu cầu khai báo. Yếu tố quan trọng là bất kỳ yếu tố nào có ảnh 
hưởng đến việc chấp nhận Bảo hiểm và giải quyết quyền lợi Bảo hiểm. 
5. Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được Bảo hiểm 
Nguyên tắc này đưa ra yêu cầu đối với người tham gia Bảo hiểm. Đó là 
nếu đối tượng được Bảo hiểm gặp rủi ro, người tham gia Bảo hiểm phải có 
tổn thất về mặt tài chính. 
Cụ thể: người tham gia Bảo hiểm phải có quan hệ với đối tượng được Bảo 
hiểm và được pháp luật công nhận về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, 
quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng hay cấp dưỡng. 
Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng Bảo hiểm cho tài sản của người 
khác hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ đơn Bảo hiểm. 
******Lưu ý: So sánh Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội 
Giống nhau: giữa BHTM và BHXH là: cùng có mục đích hoạt động là bù 
đắp tài chính để ổn định đời sống cho người tham gia Bảo hiểm khi gặp rủi 
ro. Và quỹ Bảo hiểm này chủ yếu được tạo lập từ những đối tượng tham gia 
Bảo hiểm. 
7 
Khác nhau: 
Các tiêu chí 
Bảo hiểm thương mại 
Bảo hiểm xã hội 
1 
Mục đích 
Được thực hiện bởi các doanh 
nghiệp Bảo hiểm nhằm mục 
đích cung cấp cho xã hội một 
loại hàng hóa, dịch vụ “an 
tòan”. 
Trên cơ sở đó, nhà Bảo hiểm 
tìm kiếm một khoản lợi nhuận 
kinh doanh Bảo hiểm. 
Được thực hiện bởi cơ quan Bảo hiểm 
xã hội − một tổ chức sự nghiệp của 
nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã 
hội. 
Là loại hình Bảo hiểm không vì mục 
tiêu lợi nhuận. 
2 
Nội dung 
BHTM không chỉ đảm bảo cho 
các rủi ro về con người như 
BHXH mà còn đảm bảo các rủi 
ro của các đối tượng khác như 
tài sản (công trình, nhà cửa, nhà 
xưởng, hàng hóa, phương tiện 
sản xuất kinh doanh và sinh 
họat) và trách nhiệm (trách 
nhiệm công cộng, trách nhiệm 
sản phẩm,...); 
BHXH bảo đảm cho các rủi ro về con 
người. Những biến cố làm giảm hoặc 
mất khả năng lao động, mất việc làm 
trong BHXH có thể là những rủi ro 
ngẫu nhiên như ốm đau, tai nạn lao 
động, bệnh nghề nghiệp hoặc không 
hoàn toàn ngầu nhiên như tuổi già, 
thai sản. 
3 
Xác định mức phí 
bảo hiểm 
BHTM có mức phí, mức chi trả 
bồi thường phụ thuộc vào thỏa 
thuận phù hợp theo nhu cầu 
(xuất phát từ giá trị tài sản được 
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa 
chọn, mức độ quan trọng của rủi 
ro,...) và khả năng của Người 
được bảo hiểm, thông thường 
nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp 
đồng bảo hiểm là tương xứng 
nhau. 
Phí bảo hiểm của BHXH được xác 
định theo thu nhập của người lao động 
(theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ 
không theo tình trạng sức khỏe, tuổi 
thọ của họ. 
4 Mối quan hệ của 
Người được bảo 
hiểm và Người 
bảo hiểm 
Mối quan hệ có thời hạn và 
thông thường là ngắn hạn (đối 
với bảo hiểm phi nhân thọ) 
Mối quan hệ là lâu dài, trọn đời 
5 Cộng đồng Người 
được bảo hiểm 
Là một “nhóm đóng” có giới 
hạn trong một thời kỳ nhất định 
Là một “nhóm mở” có đầu vào và đầu 
ra là các thế hệ người lao động nối tiếp 
nhau. 
8 
IV. Hợp đồng Bảo hiểm thương mại (HĐBHTM) 
1. Khái niệm 
 HĐBH là một văn bản pháp lý qua đó doanh nghiệp Bảo hiểm cam kết 
sẽ chi trả hoặc bồi thường cho bên được Bảo hiểm khi có sự kiện Bảo hiểm 
xảy ra gây tổn thất, ngước lại bên mua Bảo hiểm cảm kết trả khoản phí phù 
hợp với mức trách nhiệm và rủi ro mà doanh nghiệp Bảo hiểm đã nhận 
 HĐBH có những điểm cần chú ý sau : 
- Trong HĐBH có 2 bên : bên Bảo hiểm (Các DNBH ) và bên mua Bảo 
hiểm (người tham gia bảo hiểm). 
- HĐBH bao gồm có 3 loại HĐBH chính : 
 + HĐBH tài sản là văn bản thỏa thuận giữa DNBH và người tham gia 
Bảo hiểm nhằm bảo đảm cho tài sản của người được Bảo hiểm gồm vật có 
thức, tiền, giấy tờ giá trị được bằng tiền và các quyền tài sản. 
 + HĐBH trách nhiệm dân sự là văn bản thỏa thuận giữa các DNBH và 
người tham gia BH nhằm bảo đảm cho cá trách nhiệm dân sự có thể phát 
sinh của người được Bảo hiểm với người thứ 3 theo quy định pháp luật. 
 + HĐBH con người là văn bản thỏa thuận giữa DNBH và người tham gia 
BH nhằm bảo đảm cho tuổi thọ, tính mạng tình trạng sức khỏe của người 
được Bảo hiểm và tai nạn có thể xảy ra với người được Bảo hiểm. 
2. Chủ thế và trách nhiệm của các bên trong HĐBH 
- Các chủ thể có liên quan 
 + Doanh nghiệp bảo hiểm : Tổ chức, cá nhân có đầy đủ tư cách pháp 
nhân được NN cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh BH. 
9 
 + Người tham gia bảo hiểm : là tổ chức hoặc cá nhân ký kết HĐBH với 
DNBH và đóng phí BH. 
 + Người được BH : Tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, 
tính mạng hoặc tình trạng sức khỏe được Bảo hiểm theo HĐBH. 
 + Người thụ hưởng : tổ chức, cá nhân được người tham gia BH chỉ định 
trong HĐBH sẽ nhận sự tài trợ và bồi thường từ DNBH. 
- Trách nhiệm các bên trong HĐBH 
 + Đối với DNBH : giải quyết bồi thường chi trả khi sự kiện BH xảy ra 
gây tổn thất. Việc thanh toán phải đảm bảo nhanh chóng kịp thời và hợp lý. 
Ngoài ra DNBH còn có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin mà bên mua BH 
cung cấp. 
 + Đối với bên tham gia BH : Phải trả phí đầy đủ, đúng kì hạn, khai báo 
rủi ro trung thực, chính xác các câu hỏi có kiên quan đến đối tượng BH. Phải 
thông báo kịp thời khi mà rủi ro được BH xảy ra. 
3. Giá trị BH và số tiền BH : 
- Giá trị BH : là giá trị của đối tượng được BH, giá trị của các tài sản 
được BH và nó được lấy làm căn cứ để xác định STBH và phí BH. 
- Số tiền BH : là khoản tiền được xác định trong HĐBH thể hiện giới 
hạn trách nhiệm của DNBH, có thể nhỏ hơn (dưới giá trị), ngang bằng 
(ngang giá trị), hoặc lớn hơn (trên giá trị) GTBH. 
 Riêng đối với BHCN, STBH được xác định dựa trên sự thỏa thuận của 
hai bên và khả năng tài chính của người tham gia BH, còn trong BHTNDS, 
STBH thường được xác định dựa trên sự thỏa thuận. 
10 
4. Phí Bảo hiểm : 
 Khái niệm: Phí BH là số tiền mà người tham gia BH phải trả cho 
công ty BH để đổi lấy sự bảo đảm trước các rủi ro chuyển sang cho công ty 
BH. 
 Cơ cấu của phí BH : gồm 2 phần 
 P = f + d 
Trong đó : 
 P : phí BH toàn bộ 
 f : Phí thuần 
 d : Phụ phí 
 - Phí thuần : là khoản phí phải thu cho phép công ty BH đảm bảo chi trả, 
bồi thường cho các tổn thất được BH có thể xảy ra. Nó được căn cứ vào các 
yếu tố: 
 + Xác suất xảy ra rủi ro 
 + Cường độ tổn thất 
 + STBH 
 + Thời hạn BH 
 + Lãi suất đầu tư 
- Phụ phí : là khoản chi cần thiết đển DNBH đảm bảo cho các khoản 
chi trong hoạt động nghiệp vụ BH, bao gồm : 
 + Chi hoa hồng 
 + Chi quản lý hành chính 
 + Chi đề phòng hạn chế tổn thất 
11 
 + Chi thuế nhà nước 
 Tuy nhiên, thực tế mức phí Bảo hiểm thường được tính Căn cứ vào 
STBH và tỷ lệ theo công thức : 
 Phí BH = Tỷ lệ phí * Số tiền BH 
5. Thời hạn BH 
 Là thời gian HĐBH có hiệu lực, kể từ ngày ký lết HĐBH và có bằng 
chứng DNBH đã chấp nhận bảo hiểm và người tham gia BH đã đóng phí BH 
cho tới khi kết thúc trách nhiệm BH. 
V. Tái bảo hiểm trong BHTM 
1. Sự cần thiết khách quan 
 TBH là hoạt động gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh doanh BH, là 
một phần cơ bản trong hoạt động KDBH.Sự gắn kết giữa BH và TBH là tất 
yếu bởi vì hoạt động TBH không chỉ là một biện pháp quan trong giúp các 
nhà BH phân tán bớt rủi ro để ổn địnhh hoạt động kinh doanh mà còn gián 
tiếp đảm bảo quyền lợi cho người được BH. 
- Đối với DNBH : TBH là hoạt động cần thiết cho các DNBH, thông 
qua TBH các DNBH có thể mở rộng khả năng tài chính của chính họ để đảm 
nhận các HĐBH có giá trị lớn. Ngoài ra sẽ giúp cho các DNBH hạn chế các 
tổn thất của mình. 
- Đối với người được BH : TBH thực sự cần thiết đảm bảo cho người 
được BH luôn có thể nhận được quyền lợi đầy đủ ngay cả khi có tổn thất 
toàn bộ xảy ra. 
12 
- Đối với thị trường BH : TBH là hoạt động cần thiết cho sự phát triển 
của TTBH, làm cho TTBH phát triển đa dạng hơn, tăng cường chất lượng kỹ 
thuật BH cho TTBH. 
Từ trên ta có thể thấy được ưu điểm và nhược điểm của TBH: 
- Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho công ty bảo hiểm, cân bằng dịch vụ 
BH, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi ảnh hưởng của các sự cố lớn có tính thảm 
họa, đảm bảo tài chính cho các công ty BH. 
- Nhược điểm: TBH có liên quan đến việc chuyển nhượng một phần 
thậm chí phần lớn chi phí BH cho công ty TBH. Do đó, TBH có thể làm tăng 
hoặc giảm 1 cách đáng kể các chỉ tiêu tài chính của công ty BH. 
2. Bản chất của hoạt động TBH 
- Khái niệm : TBH là nghiệp vụ thong qua đó có một DNBH chuyển 
cho một hoặc nhiều DNBH khác một phần rủi ro đã nhận đối với một đối 
tượng BH nhất đinh trên cơ sở chuyển nhượng bớt một phần số phí BH đã 
nhận. 
- Bản chất TBH: cơ chế phân tán rủi ro. 
3. Điều kiện tái Bảo hiểm 
- Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác 
dụng và qua đó yếu tố ngẫu nhiên được loại trừ. 
- Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được BH không được phép 
chênh lệch quá lớn, xảy ra trong số hợp đồng BH (tình trạng này dẫn đến sự 
không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm). 
- Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này 
thì không phát sinh nhu cầu bảo hiểm). 
13 
Phần II: Thực trạng thị trường BHTM Việt 
Nam 
I. Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm ở Việt Nam 
Bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn so với sự phát triển chung của ngành 
bảo hiểm thế giới do nhiều điều kiện chủ quan cũng như khách quan. Tuy 
nhiên, hiện nay, ngành bảo hiểm đang dần dần bắt kịp xu thế phát triển 
chung của bảo hiểm trong khu vực và quốc tế và ngày càng chứng tỏ vai trò 
không thể thiếu được của mình đối với nền kinh tế. Chúng ta có thể nhận 
thấy điều này khi theo dõi quá trình phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam 
từ những ngày đầu đến nay. 
1. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cũng như tất cả các ngành 
kinh tế khác, các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam được tiến hành quốc 
hữu hoá. Công ty Bảo hiểm và Tái bảo hiểm Việt Nam được thành lập để 
thực hiện tiếp trách nhiệm của các công ty cũ đối với những người được bảo 
hiểm muốn tiếp tục hợp đồng. Đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài, 
công ty có trách nhiệm thanh toán và đòi nợ theo đúng hợp đồng. Năm 1976, 
khi hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, công ty được chuyển 
thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. 
Thời kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở 
Việt Nam theo chế độ hạch toán kế toán kinh tế thống nhất toàn ngành. Công 
ty trực thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản 
lý công tác bảo hiểm Nhà nước và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm 
trong cả nước. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Bảo Việt độc quyền kinh 
doanh bảo hiểm nên các sản phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực 
hiện các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo 
14 
hiểm. Có thể nói, thời gian này, hoạt động bảo hiểm ở nước ta vẫn chưa phát 
triển. 
2. Giai đoạn sau 1986 đến nay: năm 1986, Nghị quyết Đại hội Đảng 
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diến ra vào năm này đã đưa ra chính sách đổi 
mới, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh theo các 
quy định của pháp luật. Đồng thời, Việt Nam cũng đã tiến hành mở cửa nền 
kinh tế, thu hút đầu tư từ nhiều quốc gia, khu vực. Hoạt động sản xuất - kinh 
doanh từng bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao đòi hỏi ngành 
bảo hiểm cũng phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu, thích hợp với hoàn cảnh 
mới. Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới, công ty liên doanh, công ty 
cổ phần, công ty 100% vốn nước ngoài... sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá 
trình phát triển bảo hiểm ở nước ta. 
Ngày 18/12/1993, nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã 
được Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm 
Việt Nam. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời 
của các tổ chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành 
phần kinh tế. Mặc dù vậy, phải từ sau năm 1995, một loạt các công ty kinh 
doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo Minh, VINARE, PVI, PJICO... và các công 
ty liên doanh bảo hiểm như: UIC, VIA,... Ngoài ra, với khoảng 40 văn 
phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài và hơn 70.000 đại lý 
bảo hiểm thị trường bảo hiểm Việt Nam đang phát triển ngày một sôi động. 
Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cũng như sự xuất hiện của các công ty 
mới đã tạo điều kiện cho bảo hiểm phát triển mạnh mẽ trong một môi trường 
cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Các công ty liên tục hoàn thiện những sản 
phẩm cũ, đồng thời nghiên cứu và giới thiệu những loại hình nghiệp vụ bảo 
hiểm mới đa dạng và hấp dẫn. Người tham gia bảo hiểm có thể tự do lựa 
15 
chọn người bảo hiểm, loại hình dịch vụ bảo hiểm với mức phí cạnh tranh 
nhất. Trong tương lai, nhu cầu bảo hiểm sẽ ngày càng đa dạng hơn và số 
lượng, chủng loại sản phẩm chắc chắn sẽ còn được rộng mở. Không chỉ có 
vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, công tác chăm sóc khách hàng cũng ngày 
càng được c