Đề tài Thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan Đại số 10

Trong những năm gần đây, sự bùng nổ thông tin trên thế giới do sự phát triển nhanh chóng vượt bậc của khoa học kĩ thuật, đã làm xuất hiện rất nhiều những tri thức và lĩnh vực nghiên cứu mới. Trước những thay đổi ấy, nếu con người không tự trang bị cho mình những tri thức mới, hiểu biết mới sẽ trở nên lạc hậu với thời đại và nhanh chóng bị đào thải. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy cảm với cái mới, biết nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt các thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến. Do đó, một vấn đề cần đặt ra đối với nền giáo dục của mỗi nước là cần phải tăng cường khả năng tự học, tích cực tìm hiểu và độc lập suy nghĩ, sáng tạo cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, tại Đại hội XI Đảng ta đã nhấn mạnh: “Chúng ta đang phấn đấu để đưa giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo.” Do đó, ngành giáo dục nước ta đang thực hiện một cuộc cải cách lớn ở bậc PTTH và bậc đại học; cải cách ở bậc PTTH bao gồm đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và cả KTĐG. Hoạt động đổi mới KTĐG ở NTPT hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc sử dụng hình thức kiểm tra TNKQ và hình thức kiểm tra kết hợp giữa TNKQ và TNTL. Mặc dù hình thức TNKQ đã được áp dụng từ năm 2006 và được triển khai rộng rãi trong năm 2007-2008 qua các kì thi tốt nghiệp và đại học ở khá nhiều môn nhưng hình thức này vẫn còn mới đối với giáo viên và học sinh. Có thể nói đây là bước thay đổi thật sự trong khâu KTĐG kết quả học tập của học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và cẩn thận cho sự thay đổi này. Là một giáo viên Toán trong tương lai, tôi thiết nghĩ mình cần phải trang bị đầy đủ lí thuyết và kĩ thuật về TNKQ. Chính vì vậy, để được rèn luyện về chuyên môn và cọ xát với hình thức KTĐG mới này, tôi đã chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan Đại số 10”.

doc88 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4050 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan Đại số 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong những năm gần đây, sự bùng nổ thông tin trên thế giới do sự phát triển nhanh chóng vượt bậc của khoa học kĩ thuật, đã làm xuất hiện rất nhiều những tri thức và lĩnh vực nghiên cứu mới. Trước những thay đổi ấy, nếu con người không tự trang bị cho mình những tri thức mới, hiểu biết mới sẽ trở nên lạc hậu với thời đại và nhanh chóng bị đào thải. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy cảm với cái mới, biết nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt các thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến. Do đó, một vấn đề cần đặt ra đối với nền giáo dục của mỗi nước là cần phải tăng cường khả năng tự học, tích cực tìm hiểu và độc lập suy nghĩ, sáng tạo cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, tại Đại hội XI Đảng ta đã nhấn mạnh: “Chúng ta đang phấn đấu để đưa giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo.” Do đó, ngành giáo dục nước ta đang thực hiện một cuộc cải cách lớn ở bậc PTTH và bậc đại học; cải cách ở bậc PTTH bao gồm đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và cả KTĐG. Hoạt động đổi mới KTĐG ở NTPT hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc sử dụng hình thức kiểm tra TNKQ và hình thức kiểm tra kết hợp giữa TNKQ và TNTL. Mặc dù hình thức TNKQ đã được áp dụng từ năm 2006 và được triển khai rộng rãi trong năm 2007-2008 qua các kì thi tốt nghiệp và đại học ở khá nhiều môn nhưng hình thức này vẫn còn mới đối với giáo viên và học sinh. Có thể nói đây là bước thay đổi thật sự trong khâu KTĐG kết quả học tập của học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và cẩn thận cho sự thay đổi này. Là một giáo viên Toán trong tương lai, tôi thiết nghĩ mình cần phải trang bị đầy đủ lí thuyết và kĩ thuật về TNKQ. Chính vì vậy, để được rèn luyện về chuyên môn và cọ xát với hình thức KTĐG mới này, tôi đã chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Thiết kế một số đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan Đại số 10”. 2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế bộ câu hỏi TNKQ môn Đại số 10 nhằm KTĐG kết quả học tập của học sinh qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận về quá trình KTĐG chung và phương pháp KTĐG nói riêng. - Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa đại số 10 (ban cơ bản và nâng cao) để nắm vững mục đích và yêu cầu cần đạt được của chương trình. - Dựa trên cơ sở lí luận đó, thiết kế các đề kiểm tra TNKQ các chương của sách giáo khoa đại số 10. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm trên học sinh, sau đó phân tích thống kê các đề kiểm tra TNKQ nhằm đánh giá độ tin cậy, tính khả thi của các đề đó. 4. Đối tượng nghiên cứu - Cơ sở thực tiễn của việc KTĐG kết quả học tập của học sinh ở NTPT. - Cơ sở lí luận về phương pháp soạn thảo, phân tích hệ thống câu hỏi TNKQ. - Nội dung, mục tiêu, chương trình sách giáo khoa đại số 10 (ban cơ bản và nâng cao). 5. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Nghiên cứu những tài liệu về phương pháp TNKQ . - Nghiên cứu những tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học và KTĐG. - Nghiên cứu chương trình đại số 10 và sách tham khảo liên quan. + Phương pháp thực nghiệm - Ra đề kiểm tra và phân tích câu hỏi của đề kiểm tra. 6. Phạm vi nghiên cứu Vì thời gian có hạn và trong khuôn khổ một khóa luận, tôi chỉ nghiên cứu hệ thống câu hỏi TNKQ và thiết kế một số đề kiểm tra TNKQ cho môn đại số lớp 10. 7. Cấu trúc khóa luận - Phần mở đầu - Phần nội dung Chương I: Kiểm tra đánh giá trong nhà trường phổ thông Chương II: Cơ sở lí luận của phương pháp trắc nghiệm khách quan Chương III: Thiết kế đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan đại số lớp 10 Chương IV: Thực nghiệm sư phạm - Phần kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục CHƯƠNG I KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở NHÀ TRƯỜNG THPT 1.1. Cơ sở lí luận của kiểm tra đánh giá kết quả học tập 1.1.1. Khái niệm kiểm tra đánh giá Kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức của đánh giá. Hoạt động kiểm tra cung cấp những thông tin, dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh giá. Đánh giá KQHT là quá trình thu nhận và xử lí thông tin về trình độ khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh; về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo ra cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên, nhà trường và cho học sinh để họ học tập ngày càng tiến bộ hơn. KTĐG là một quá trình gồm hai công việc đan xen với nhau một cách thứ tự, công việc đó nhằm để đánh giá KQHT của học sinh. Đối tượng của KTĐG là kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo của học sinh, ở các mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng. Qua đó giáo viên và học sinh biết được mức độ bền vững kiến thức đã được tiếp thu và tự điều chỉnh quá trình dạy và học cho phù hợp, cũng như mối quan hệ giữa tri thức và thực tiễn, kĩ năng vận dụng trong thực tiễn. 1.1.2. Ý nghĩa của KTĐG kết quả học tập Ai cũng biết giáo dục có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tiến trình phát triển của xã hội, giáo dục đào tạo ra thế hệ trẻ tương lai cho đất nước. Chính vì vậy, hoạt động KTĐG giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục. Hoạt động này xem xét hoạt động dạy học đã đem lại kết quả cao nhất chưa, học sinh đã lĩnh hội được những gì và có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. KTĐG có ý nghĩa rất lớn đối với: - Học sinh: KTĐG giúp học sinh nắm vững và củng cố những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, giúp học sinh hình thành kĩ năng, thói quen tự học, tự nghiên cứu. Học sinh biết sử dụng các phương tiện và áp dụng tri thức vào giải quyết vấn đề, biết cách trình bày, diễn đạt kiến thức bằng ngôn ngữ của mình. Đó không chỉ là biện pháp hoàn thiện tri thức mà còn là điều kiện để học sinh hình thành thái độ và phương pháp tự học thích hợp. - Giáo viên: KTĐG giúp giáo viên nhận biết năng lực và trình độ của từng học sinh qua đó phát huy các khả năng và sửa chữa những khuyết điểm của các em. Không những thế, giáo viên tự đánh giá vốn kiến thức của mình, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm; từ đó mỗi giáo viên tự học, tự nghiên cứu tu dưỡng để nâng cao uy tín, trình độ chuyên môn của mình. - Cán bộ quản lý: việc KTĐG cung cấp cho cán bộ quản lý giáo dục những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo kịp thời, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, điều chỉnh hoạt động dạy và học, đảm bảo thực hiện tốt những mục tiêu giáo dục. 1.1.3. Chức năng, yêu cầu và các hình thức của KTĐG a. Chức năng của KTĐG Từ quan điểm của KTĐG, người ta có thể phân biệt các chức năng khác nhau của KTĐG tùy vào mục đích khác nhau. Theo Trần Bá Hoành, KTĐG có ba chức năng chính: chức năng sư phạm, chức năng xã hội, chức năng khoa học. Trong đó, chúng ta đặc biệt quan tâm đến chức năng sư phạm của việc KTĐG. Chức năng này gồm ba chức năng cụ thể: chức năng chẩn đoán, chức năng chỉ đạo định hướng dạy học và chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học. Các chức năng này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. b. Yêu cầu sư phạm của KTĐG Để KTĐG kết quả học tập của học sinh đem lại hiệu quả cao thì đề thi hay đề kiểm tra phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Tính khách quan: việc KTĐG phải diễn ra khách quan và chính xác tới mức tối đa có thể, sát với hoàn cảnh, phù hợp với điều kiện dạy và học, tránh những nhận định chủ quan, áp đặt. - Toàn diện: dựa vào mục tiêu, nội dung của môn học để tiến hành kiểm tra một cách đầy đủ và toàn diện, tránh tình trạng học sinh học tủ và học lệch. - Hệ thống: KTĐG phải thực hiện theo kế hoạch và có hệ thống. - Công khai: công khai đáp án, thang điểm, kết quả, thời gian và tiêu chí đánh giá trước khi bắt đầu khóa học, kì học. - Tính phân hóa: kết quả kiểm tra phải phản ánh được trình độ học sinh, phân hóa nhiều đối tượng học sinh khác nhau. c. Các hình thức của KTĐG - Về kiểm tra có hai loại chủ yếu: + Kiểm tra thường xuyên: kiểm tra 15’, kiểm tra miệng, giải toán nhanh. + Kiểm tra định kì: kiểm tra 1 tiết, cuối chương, học kỳ năm học, kì thi tốt nghiệp, đại học. - Về đánh giá có các hình thức sau: + Thường xuyên: đánh giá KQHT trong từng tiết học hay từng vấn đề. + Định kì: đánh giá KQHT cuối chương, học kì, năm học, thi và xét tốt nghiệp. + Thi tuyển: đánh giá để chọn năng lực vào các lớp năng khiếu, đại học. + Thi học sinh giỏi: đánh giá năng khiếu học toán. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng của hoạt động KTĐG ở nhà trường phổ thông a. Ưu điểm + Hình thức: tổ chức theo đơn vị lớp, trường trong thời gian nhất định (15’, một tiết, kiểm tra học kì). + Giáo viên đã biết sử dụng các loại hình kiểm tra đánh giá thường xuyên (kiểm tra miệng, 15’, 1 tiết, kiểm tra củng cố sau mỗi tiết học). + Nội dung đánh giá đã chú ý tới cả kiến thức, kĩ năng, thái độ và đã phản ánh được chất lượng dạy học ở phổ thông. + Kết quả đã đánh giá được khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh. b. Hạn chế - Một số giáo viên chưa coi trọng đúng mức khâu KTĐG và tự KTĐG. - Giáo viên là người ra đề, chấm và quyết định KQHT của học sinh, chưa coi trọng vai trò tự lực, chủ động của học sinh trong KTĐG và đánh giá lẫn nhau. - KTĐG ở nhà trường hiện nay chỉ chú ý về đánh giá khả năng, tái hiện tri thức, khả năng ghi nhớ, chưa chú trọng đúng mức yêu cầu phát triển tư duy sáng tạo. - Giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh phát triển khả năng tự đánh giá để điều chỉnh cách học, phương pháp học của bản thân. - KQHT của học sinh là cả một quá trình nhưng thực tế nhiều giáo viên chỉ căn cứ vào kết quả cuối cùng để đánh giá, nhận xét, phân loại học sinh. - Sử dụng kết quả đánh giá còn hạn chế, chủ yếu dựa vào điểm số để phân loại học sinh, chưa khai thác được những thông tin ngược. 1.2.2. Xu hướng đổi mới trong KTĐG môn Toán Để đáp ứng được mục tiêu đổi mới trong giáo dục và yêu cầu ngày càng cao của xã hội, giáo dục cần phải đào tạo những con người chủ động sáng tạo, thích ứng được với yêu cầu CNH-HĐH đất nước, yêu cầu về trình độ lao động trong khu vực và thế giới. Vì vậy, công tác giáo dục ở nước ta cần phải có hướng thay đổi, cải cách về nội dung, phương pháp và cách kiểm tra đánh giá ở nhà trường phổ thông. KTĐG môn Toán phải được đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ theo các yêu cầu là: phải đánh đầy đủ năng lực toán học của học sinh, KTĐG phải được phát huy, đánh giá bằng nhiều phương pháp, phải liên tục, toàn diện, phải làm cho học sinh phát huy hết khả năng tư duy toán học của mình. Muốn đánh giá tốt, chúng ta cần chú ý tới các mặt đổi mới sau: - Đổi mới mục đích đánh giá KQHT Xác định KQHT ở các môn, từng kì, từng giai đoạn theo từng lĩnh vực nội dung môn học đã được quy định nhằm xác định mức độ đạt được của học sinh so với mục tiêu đề ra. - Đổi mới nội dung đánh giá KQHT + Đề kiểm tra phải bao quát, đầy đủ nội dung học tập, phải dựa trên những mục tiêu cụ thể của chương trình. + Đề kiểm tra phải đảm bảo sự phân hóa trình độ kiến thức, kĩ năng, dựa trên trình độ chuẩn quy định. - Đổi mới cách đánh giá + Ngoài cách đánh giá bằng điểm số, phải chú trọng đến đánh giá bằng lời nhận xét cụ thể về ưu khuyết điểm của học sinh, qua đó phát triển kĩ năng tự đánh giá của học sinh. + Đối tượng được đánh giá được mở rộng (thầy giáo, tập thể, bản thân…). Đánh giá không chỉ dựa trên bài kiểm tra mà còn dựa trên đối thoại, quan sát, không chỉ những giờ trong lớp mà còn ở các giờ thảo luận, thực hành. - Đổi mới công cụ đánh giá + Đề kiểm tra viết trong đó sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan và tự luận, vở bài tập, sơ đồ, biểu bảng… Trong việc biên soạn đề KTĐG phải đảm bảo các yêu cầu sau: phù hợp với chương trình về kiến thức, kĩ năng, sát với trình độ của học sinh; câu hỏi phát biểu chính xác rõ ràng để học sinh hiểu đơn trị, cần có bài tập đào sâu vận dụng kiến thức tổng hợp, đòi hỏi tư duy bậc cao để phân loại học sinh. CHƯƠNG II CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM 2.1. Khái niệm trắc nghiệm Theo GS. Dương Thiệu Tống “trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức hệ thống đo lường một mẫu động thái để trả lời cho câu hỏi: thành tích của cá nhân như thế nào so với những người khác hay so với một lĩnh vực các nhiệm vụ học tập được dự kiến”. Theo GS. Lâm Quang Thiệp “trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường các năng lực của một đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định”. Như vậy có thể nói rằng, trắc nghiệm là một loại hình phương pháp được thực hiện để đo lường năng lực người học, xác định một hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân nào đó một cách khách quan nhằm những mục đích nhất định. 2.2. Mục đích của trắc nghiệm Một bài trắc nghiệm có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau nhưng bài trắc nghiệm có ích và hiệu quả nhất khi nó được soạn thảo để nhằm phục vụ một mục đích chuyên biệt nào đó. Mục đích đó có thể là xác định học sinh đã nắm vững kiến thức đến độ nào hoặc để cho điểm và xếp hạng học sinh sau một quá trình dạy học. Tuy nhiên dù trắc nghiệm được sử dụng cho mục đích nào thì đo lường thành quả học tập cũng cần được hiểu như là đo lường mức độ đạt đến các mục tiêu giảng dạy. Vì vậy, nội dung và cấu trúc của một bài trắc nghiệm phải được đặt trên cơ sở của mục đích giảng dạy, mục tiêu giảng dạy. Người soạn trắc nghiệm phải biết rõ mục đích dạy học của mình thì mới soạn thảo bài trắc nghiệm có giá trị. 2.3. Các phương pháp trắc nghiệm 2.3.1. Các phương pháp trắc nghiệm trong các môn Toán Trắc nghiệm được phân thành nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào mục đích khảo sát như: trắc nghiệm trí thông minh, trắc nghiệm sở thích… Trong trường học, trắc nghiệm dùng để kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh về các môn học. Có ba loại trắc nghiệm, đó là: viết, vấn đáp, quan sát được sơ đồ hóa như sau: Các phương pháp trắc nghiệm Trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm tự luận Quan sát Viết Vấn đáp Theo mục đích của khóa luận này, chúng tôi tập trung vào phương pháp kiểm tra viết mà chủ yếu đó là phương pháp kiểm tra viết bằng trắc nghiệm khách quan và kĩ thuật viết câu trắc nghiệm khách quan. 2.3.2. Trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan a. Trắc nghiệm tự luận TNTL còn gọi là luận đề là một trong những hình thức KTĐG rất quen thuộc đối với giáo viên, học sinh. Hình thức này đã được sử dụng phổ biến trong quá trình dạy học từ trước đến nay. Câu hỏi TNTL là những câu hỏi có câu trả lời tự do hay trả lời có giới hạn. Với loại câu hỏi này, học sinh có thể tự do trả lời bằng bài viết mô tả, phân tích, chứng minh và giải thích vấn đề nêu ra trong câu hỏi, học sinh có thể tự do trình bày tư tưởng, suy nghĩ và phương pháp của mình. Vì vậy, phương pháp này cho phép khai thác tư duy sáng tạo, phát huy khả năng suy luận của học sinh. Bài kiểm tra TNTL do giáo viên chấm trên cơ sở phân tích bài làm của học sinh, đối chiếu yêu cầu của vấn đề. b. Trắc nghiệm khách quan Khái niệm TNKQ được đưa ra chỉ nhằm phân biệt với dạng TNTL lâu nay chúng ta đã quen thuộc. TNKQ được gọi là khách quan vì hệ thống chấm điểm khách quan và kết quả bài kiểm tra không phụ thuộc chủ quan vào người chấm. Câu hỏi TNKQ có tính chuyên biệt, thường ngắn gọn và đòi hỏi câu trả lời ngắn, đơn giản hoặc học sinh có thể lựa chọn phương án trả lời dựa trên những gợi ý có sẵn. Có thể nói trong suốt quá trình làm bài TNKQ, học sinh dùng thời gian chủ yếu để đọc và suy nghĩ mà không mất nhiều thời gian trình bày đáp án. TNKQ là hình thức khảo sát KQHT tương đối mới với nhiều giáo viên và đang được khuyến khích sử dụng. Điều đó không có nghĩa phương pháp này hoàn toàn tối ưu và có thể thay thế hẳn TNTL. TNTL không có nghĩa là chủ quan và TNKQ không hoàn toàn là khách quan mà cả hai cùng bổ sung và được sử dụng tùy thuộc vào hoàn cảnh và yêu cầu của quá trình kiểm tra. * Phân biệt TNKQ và TNTL TNKQ TNTL - Chỉ có một phương án đúng. - Tiêu chí đánh giá đơn nhất. - Việc chấm bài hoàn toàn khách quan và nhanh chóng. - Học sinh có thể có nhiều phương án trả lời. - Tiêu chí đánh giá không duy nhất. - Việc chấm bài phụ thuộc chủ quan người chấm. - Câu trả lời có sẵn hoặc nếu phải viết đó là những câu rất ngắn. - Câu trả lời tự do học sinh tự viết và trình bày tự do. 2.3.3. Những ưu điểm và hạn chế của TNTL a. Ưu điểm - Do đặc thù của hình thức kiểm tra này là học sinh trình bày câu trả lời tự do hoặc có giới hạn nên ưu điểm nổi bật là phát huy khả năng tư duy sáng tạo của học sinh, rèn luyện cho học sinh thói quen trình bày vấn đề một cách khoa học, logic, tổng quát hóa. Đồng thời khuyến khích sự phát huy tính sáng tạo, độc lập, suy nghĩ, tìm kiếm mối tương quan giữa các kiến thức học để giải quyết vấn đề. - Phát triển ngôn ngữ, cách diễn đạt cho học sinh thông qua việc các em tự do trình bày, sắp xếp ý tưởng theo cách riêng của mình. b. Hạn chế - Trong phạm vi thời gian hạn chế, đề thi chỉ có thể hỏi vài vấn đề của môn học. Vì có quá ít vấn đề được đề cập nên dễ xảy ra hiện tượng “trật tủ”, “trúng tủ” tạo nên mức độ may rủi lớn trong thi cử. - Học sinh muốn trình bày kiến thức nào đó của môn học phải nhớ lại hơn là nhận biết thông tin. - Bài TNTL được giáo viên đánh giá theo nhận định chủ quan và các điểm do những người chấm khác nhau thường dễ không thống nhất. 2.3.4. Những ưu điểm và hạn chế của TNKQ a. Ưu điểm - Cho phép KTĐG được nhiều mục tiêu giáo dục khác nhau của hầu hết các môn học trong chương trình. - KTĐG trên diện rộng trong thời gian ngắn. - Do số lượng câu hỏi trong một bài trắc nghiệm nhiều nên dễ phân bố đều khắp các môn học, buộc học sinh phải tự giác học kĩ tất cả nội dung kiến thức, tránh tình trạng “học tủ, học lệch”. Học sinh không chỉ bao quát chương trình mà phải hiểu sâu các vấn đề của môn học. - Khi làm bài TNKQ học sinh dùng nhiều thời gian để đọc và suy nghĩ, có tác dụng rèn luyện khả năng nhanh nhẹn, phát triển tư duy học sinh. - Tốn ít công sức chấm bài và đảm bảo tính khách quan. - Dễ sử dụng toán thống kê để phân tích kết quả kiểm tra, độ tin cậy của đề. - Với sự hỗ trợ của các phần mềm xáo trắc nghiệm, có thể soạn các đề thi tương tự có cùng nội dung, bằng cách thay đổi thứ tự các câu hỏi và phương án trả lời, tránh được tình trạng học sinh quay cóp. b. Hạn chế - Việc soạn câu TNKQ đúng chuẩn và hay rất khó và mất nhiều thời gian. Yêu cầu người ra đề phải có chuyên môn, kinh nghiệm và đầu tư nhiều thời gian. - Khó đánh giá khả năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ và tư duy của học sinh, khả năng sáng tạo của học sinh. - Nếu không có cách kiểm tra thích hợp (xáo các câu trong một đề hay có nhiều đề…) thì dễ dẫn đến học sinh nhìn bài nhau một cách dễ dàng. - Nếu số lượng câu hỏi không nhiều thì khả năng đoán mò vẫn còn khá cao. c. Hướng khắc phục - Giáo viên nên hạn chế sử dụng câu đúng – sai, nên sử dụng nhiều câu lựa chọn. - Chỉ sử dụng phổ biến các câu hỏi TNKQ đã được thực nghiệm và đưa vào ngân hàng câu hỏi. - Kết hợp TNKQ với các hình thức trắc nghiệm khác. - Người soạn thảo câu TNKQ phải là người có chuyên môn, kinh nghiệm và hiểu rõ kĩ thuật viết câu hỏi TNKQ. 2.3.5. Khi nào nên sử dụng TNKQ và kết hợp giữa TNKQ và TNTL? a. Đối với TNTL chúng ta có thể sử dụng trong các trường hợp sau: - Khi số lượng học sinh không quá đông. - Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt. - Khi muốn tìm hiểu ý tưởng, tư duy sáng tạo của học sinh hơn là khảo sát thành quả học tập. - Khi không có nhiều thời gian soạn đề nhưng có đủ thời gian chấm bài. b. Đối với TNKQ chúng ta có thể sử dụng trong các trường hợp sau: - Khi khảo sát một số lượng lớn học sinh. - Khi muốn chấm bài nhanh. - Khi muốn đề thi có độ an toàn cao về nội dung và đảm bảo tính bí mật. - Khi muốn kiểm tra lượng kiến thức nhiều và những kiến thức đó trải dài theo chương trình học. - Khi muốn tránh tình trạng học lệch, học tủ, học đối phó và tình trạng gian lận trong thi cử. c. Sự kết hợp giữa TNKQ và TNTL cũng là một trong những lựa chọn của nhiều giáo viên. 2.4. Cơ sở lí luận của phương pháp TNKQ 2.4.1. Các loại câu hỏi TNKQ a. Trắc nghiệm loại đúng – sai Đây là dạng câu hỏi được trình bày dưới dạng một câu khẳng định mà phải lựa chọn đúng hay sai. Chỉ thích

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docduyenkl.doc
  • pptduyen.ppt
Luận văn liên quan