1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình hội nhập và phát triển, vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại cho nền kinh tế của cả một quốc gia. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu đối với Việt Nam đó là thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhìn lại chặng đường 24 năm qua thì chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7%; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ người nghèo giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 13,5% năm 2008; tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được đảm bảo, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC và các tổ chức quốc tế khác. Để đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đó có viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các quốc gia và các tổ chức quốc tế luôn đóng vai trò chủ đạo, tỷ lệ ODA/GDP bình quân hàng năm khoảng 2,3%. Nguồn vốn ODA đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng đối với nước ta. Nguồn vốn đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp bách về vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. ODA đã giúp chúng ta tiếp thu và tiếp cận được với những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tương đối hiện đại.
ODA không chỉ đơn thuần là một khoản cho vay mà đi kèm với nó là những điều khoản ràng buộc về kinh tế, chính trị. Bởi vậy, việc quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển đất nước, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài thông qua các khoản viện trợ đó là một yêu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó ODA đóng một vai trò quan trọng. Do đó, một số câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn nguồn vốn ODA không? Nguồn vốn này có được sử dụng hiệu quả, có thực sự đảm bảo được phát triển kinh tế và nâng cao được đời sống của nhân dân hay không? Và giải pháp nào tốt nhất để nâng cao thu hút và phát huy hiệu quả hơn nữa việc sử dụng nguồn vốn này? Để nghiên cứu và tìm hiểu rõ hơn những điều trên và tìm ra những giải pháp tốt nhất cho nguồn vốn ODA trong thời gian tới, tôi đã chọn đề tài: “Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) - Thực trạng và giải pháp”
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức để thấy được những thành công và những mặt còn hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và rút ra bài học kinh ngiệm. Từ đó đề ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009
- Tìm ra nguyên nhân dẫn đến những thành công và hạn chế
- Đề ra những giải pháp giúp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hổ trợ phát triển chính thức
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2068 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Trong quá trình hội nhập và phát triển, vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại cho nền kinh tế của cả một quốc gia. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu đối với Việt Nam đó là thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhìn lại chặng đường 24 năm qua thì chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7%; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ người nghèo giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 13,5% năm 2008; tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được đảm bảo, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC và các tổ chức quốc tế khác. Để đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đó có viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các quốc gia và các tổ chức quốc tế luôn đóng vai trò chủ đạo, tỷ lệ ODA/GDP bình quân hàng năm khoảng 2,3%. Nguồn vốn ODA đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng đối với nước ta. Nguồn vốn đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp bách về vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. ODA đã giúp chúng ta tiếp thu và tiếp cận được với những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tương đối hiện đại.
ODA không chỉ đơn thuần là một khoản cho vay mà đi kèm với nó là những điều khoản ràng buộc về kinh tế, chính trị. Bởi vậy, việc quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển đất nước, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài thông qua các khoản viện trợ đó là một yêu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó ODA đóng một vai trò quan trọng. Do đó, một số câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn nguồn vốn ODA không? Nguồn vốn này có được sử dụng hiệu quả, có thực sự đảm bảo được phát triển kinh tế và nâng cao được đời sống của nhân dân hay không? Và giải pháp nào tốt nhất để nâng cao thu hút và phát huy hiệu quả hơn nữa việc sử dụng nguồn vốn này? Để nghiên cứu và tìm hiểu rõ hơn những điều trên và tìm ra những giải pháp tốt nhất cho nguồn vốn ODA trong thời gian tới, tôi đã chọn đề tài: “Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) - Thực trạng và giải pháp”
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức để thấy được những thành công và những mặt còn hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và rút ra bài học kinh ngiệm. Từ đó đề ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới.
Mục tiêu cụ thể
Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009
Tìm ra nguyên nhân dẫn đến những thành công và hạn chế
Đề ra những giải pháp giúp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hổ trợ phát triển chính thức
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu phục vụ cho chuyên đề được thu thập qua các tài liệu như sách báo, tạp chí, internet, các thông tin thị trường và các tài liệu liên quan đến nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.
Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistics)
Là các phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp so sánh
So sánh số tuyệt đối
Là kết quả của phép trừ giữa trị số của năm phân tích so với năm gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện khối lượng và quy mô của các hiện tượng kinh tế.
Số tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng vì thông qua các số tuyệt đối ta sẽ có một nhận thức cụ thể về quy mô, khối lượng thực tế của hiện tượng nghiên cứu. Số tuyệt đối chính xác là sự thật khách quan, có sức thuyết phục không ai có thể phủ nhận được.
Tăng (+) Giảm (-) tuyệt đối = Chỉ tiêu thực tế - Chỉ tiêu kế hoạch
So sánh số tương đối
Số tương đối động thái
Số tương đối động thái thường được sử dụng rộng rãi để thể hiện biến động về mức độ của hiện tượng nghiên cứu qua một thời gian nào đó. Số tương đối này được tính bằng cách so sánh hai mức độ cùng loại của hiện tượng ở hai thời kì (hay thời điểm) khác nhau và được biểu hiện bằng số lần hay số phần trăm. Mức độ đem ra nghiên cứu được gọi là mức độ kỳ nghiên cứu, còn mức độ được dùng làm cơ sở so sánh được gọi là mức độ kỳ gốc.
Số tương đối kết cấu
Số tương đối kết cấu phản ảnh tỷ trọng mỗi bộ phận chiếm trong tổng thể. Số tương đối này thường thể hiện bằng số phần trăm và được tính bằng cách so sánh mức độ tuyệt đối của từng bộ phận với mức độ của toàn bộ tổng thể.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian
Chuyên đề thực hiện trong phạm vi nghiên cứu tại Việt Nam
Phạm vi thời gian
Các số liệu thống kê dùng phân tích được trích từ năm 2008 đến năm 2009
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lý luận chung về nguồn viện trợ phát triển chính thức
Tổng quan về ODA
Khái niệm vốn ODA
“Hỗ trợ phát triển chính thức” hay được biết đến với cụm từ viết tắt ODA (Official Development Assistance) và ODA là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là “hỗ trợ” bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài, đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là “phát triển” vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là “chính thức” vì nó thường là cho Nhà nước vay. (Theo
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra khái niệm ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong một phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển.
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (United Nations -UN), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Lịch sử hình thành nguồn vốn ODA
Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc chiến mới kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa phe xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ. Hai cường quốc này thực thi nhiều biện pháp, đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng minh của mình.
Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng giàu có nhờ chiến tranh. Năm 1945, GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với 125,8 tỷ USD của năm 1942 và chiếm 40% tổng sản phẩm toàn thế giới. Ở thái cực khác, các nước đồng minh của Hoa Kỳ lại chịu tác động nặng nề của cuộc chiến tranh. Sự yếu kém về kinh tế của các nước này khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng nhanh chóng của phe XHCN. Để ngăn chặn sự phát triển đó, giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước tư bản sớm hồi phục kinh tế. Năm 1947, Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, thông qua Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) để viện trợ cho các nước Tây Âu. Từ năm 1947 đến 1951, Hoa Kỳ viện trợ cho các nước Tây Âu tổng cộng 12 tỷ USD (tương đương 2,2% GNP của thế giới và 5,6% GNP của Hoa Kỳ lúc bấy giờ).
Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để củng cố và gia tăng số lượng các nước gia nhập phe XHCN. Với tinh thần quốc tế vô sản, Liên Xô đã tài trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu, châu Á, đến các nước châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền các nước thuộc phe XHCN còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi thành khoảng 120 tỷ USD.
Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước XHCN được xem như là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù, mục tiêu chính của các khoản viện trợ này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng quan trọng giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nước đang phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với sự phát triển của các nước đang phát triển, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Trong bản báo cáo đầu tiên của mình, DAC đã sử dụng thuật ngữ “Offical Development Assistance”, với nghĩa là sự trợ giúp tài chính có ưu đãi của các nước phát triển cho các nước đang phát triển.
Các hình thức của ODA
Nguồn vốn ODA có các hình thức sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ). Nhưng đôi khi là hỗ trợ bằng hiện vật (hỗ trợ hàng hóa) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hóa vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hóa thành hỗ trợ ngân sách.
Tín dụng thương mại với lãi suất thấp, kéo dài thời gian trả… trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hóa có ràng buộc.
Viện trợ chương trình: là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn thực hiện ODA và nó có 2 loại là viện trợ cơ bản và viện trợ kỹ thuật. Viện trợ cơ bản thường cấp cho những dự án xây dựng đường xá, cầu cống, cơ sở hạ tầng, … Viện trợ kỹ thuật cấp cho viện trợ tri thức, tăng cường cơ sở, lập kế hoạch cố vấn cho các công trình, nghiên cứu trước khi đầu tư hoặc hỗ trợ các lớp đào tạo.
Phân loại ODA
Có nhiều phương thức phân loại nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức khác nhau, tùy theo từng phương thức phân loại mà ODA có các loại sau:
Phân loại theo phương thức hoàn trả
ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho các nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
Phân loại theo nguồn cung cấp
ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho Chính phủ của một nước.
ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp.
Căn cứ vào điều kiện để nhận ODA
ODA không ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại không kèm theo những điều khoản ràng buộc liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ.
ODA có ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo các điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số nhà cung cấp hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định.
Căn cứ theo mục đích
Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường như đường xá, cầu, cảng,... Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực…; hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
Đặc điểm và vai trò của ODA
Đặc điểm
Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi: Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác, thể hiện ở những điều sau:
Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD.
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, thường là 20 – 50 năm và có thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20 - 25% tổng vốn ODA. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
Các khoản vay thường có lãi suất thấp (thường dưới 3%), thậm chí không có lãi suất.
Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định: Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ.
Vai trò
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các nước đang phát triển thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình. Vai trò của ODA thể hiện như sau:
ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 20 - 50 năm, lãi suất thấp khoảng dưới 3%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước đang phát triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường xá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước đang phát triển có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
ODA giúp các nước đang phát triển xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển. Đa phần các nước đang phát triển rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ.
ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA
Theo điều 3 Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ban hành kèm theo nghị định số 131/2006/NĐCP ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính Phủ) thì vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho những công trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau:
Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói giảm nghèo.
Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại.
Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, lao động, việc làm, dân số và một số lĩnh vực khác).
Bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Tăng cường năng lực thể chế, quản lý, kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu
Cho đến nay, sau 16 kỳ hội nghị CG được tổ chức, Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các chương trình ODA thường xuyên.
Một số nhà tài trợ song phương lớn như: Australia, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapore, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Vương Quốc Anh, …
Một số nhà tài trợ đa phương lớn gồm:
Các tổ chức tài chính quốc tế:
Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB)
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
Ủy ban châu Âu (EC)
Liên minh Châu Âu (EU)
Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc bao gồm:
Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA)
Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO)
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD)
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO)
Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Các tổ chức phi Chính phủ quốc tế tại Việt Nam (NGO)
Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam
Tình hình thu hút và sử dụng vốn O