Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong cách tạo vốn có hiệu quả đối với các nước đang phát triển. FDI được coi như là một trong các “cú hích” quan trọng đặc biệt khi các nước này gặp phải những khó khăn trong quá trình phát triển về vốn, công nghệ, các kinh nghiệm và những kiến thức trong quản lý. Chính vì vậy, trong các chính sách phát triển của mình, các nước đang phát triển đều tạo ra môi trường thu hút thuận lợi. Việt Nam cũng là một trong những nước như thế. Trong những năm vừa qua chúng ta đã lien tục ban hành những chính sách nhằm thu hút FDI và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong thời gian qua, FDI mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông nghiệp, vốn FDI có tăng trong những năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn FDI vào nền kinh tế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế. Trong khi đó, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Vậy thực trạng của tình hình thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua như thế nào? Nguyên nhân chính của vấn đề này là gì? Và chúng ta cần làm thế nào để thu hút một cách có hiệu quả vốn FDI trong Nông nghiệp? Điều này đã và đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng và đang được rất nhiều người quan tâm.
54 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2703 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong cách tạo vốn có hiệu quả đối với các nước đang phát triển. FDI được coi như là một trong các “cú hích” quan trọng đặc biệt khi các nước này gặp phải những khó khăn trong quá trình phát triển về vốn, công nghệ, các kinh nghiệm và những kiến thức trong quản lý. Chính vì vậy, trong các chính sách phát triển của mình, các nước đang phát triển đều tạo ra môi trường thu hút thuận lợi. Việt Nam cũng là một trong những nước như thế. Trong những năm vừa qua chúng ta đã lien tục ban hành những chính sách nhằm thu hút FDI và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong thời gian qua, FDI mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông nghiệp, vốn FDI có tăng trong những năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn FDI vào nền kinh tế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế. Trong khi đó, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Vậy thực trạng của tình hình thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua như thế nào? Nguyên nhân chính của vấn đề này là gì? Và chúng ta cần làm thế nào để thu hút một cách có hiệu quả vốn FDI trong Nông nghiệp? Điều này đã và đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng và đang được rất nhiều người quan tâm. Xuất phát từ thực trạng của FDI trong nông nghiệp và tính cấp thiết của vấn đề này, trong bài viết này em xin trình bày những hiểu biết của mình về em “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000 -2015”. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên bài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô để bài nghiên cứu của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Chương I
Những vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam.
. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác”. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa “ đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và đựơc bổ sung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”, còn theo Luật đầu tư 2005 thì “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
1.1.2. Đặc điểm của FDI
Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
- FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này không có những ràng buộc về chính trị cũng như không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế của nước tiếp nhận vốn FDI. Mặt khác, quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài đi liền với dự án đầu tư, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Do đó, nhà đầu tư phải tìm hiểu các điều kiện môi trường và dự kiến lỗ lãi trước khi tiến hành đầu tư, chỉ khi chắc chắn hoạt động kinh doanh tại nước nhận đầu tư sẽ cho kết quả tốt nhà đầu tư nước ngoài mới thực hiện đầu tư. Vì vậy, FDI thường mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, tính khả thi và hiệu quả kinh tế nghiêng về bên nào hơn, nhà đầu tư hay nước nhận đầu tư, phụ thuộc vào lĩnh vực đầu tư.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa vào tỷ lệ này. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định liên doanh. Như vậy, tùy vào hình thức chủ thể được thành lập theo giấy phép đầu tư, nhà đầu tư phía nước ngoài có thể trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành các hoạt động của doanh nghiệp FDI tùy theo tỷ lệ góp vốn trong doanh nghiệp liên doanh.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, bí quyết kinh doanh, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của nước nước đi đầu tư. Đây là mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác khó có thể giải quyết được và cũng chính là vấn đề mà các nước tiếp nhận vốn đầu tư, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển rất quan tâm.
- Nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát hoạt động đầu tư. Nó thể hiện quyền sở hữu đối tượng đầu tư và quyền ra các quyết định quan trọng. Cho nên, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi các khoản đóng góp theo quy định của nước chủ nhà, nhà đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
1.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trắc nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Đặc trưng của hình thức này:
- Cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân chia quyền lợi và nghĩa vụ.
- Không thành lập pháp nhân mới.
1.1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh
Là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn.
Đặc trưng của hình thức này :
- Là dạng công ty TNHH
- Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà
- Mỗi bên thường chịu trách nhiệm với bên kia hoặc với liên doanh theo tỷ lệ góp vốn
1.1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả sản xuất kinh doanh.
Hình thức này có các đặc trưng như :
- Là dạng công ty TNHH.
- Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà.
- Sở hữu hoàn tòan nước ngoài.
- Chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
1.1.3.4 BOT ( xây dựng – vận hành – chuyển giao)
Là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hóa công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Đặc trưng của hình thức này :
- Cơ sở pháp lý là hợp đồng.
- Vốn đầu tư của nước ngoài.
- Họat động theo dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc theo liên doanh.
- Đối tượng hợp đồng thường là các công trình cơ sở hạ tầng.
1.1.3.5. Đầu tư mới, mua lại và sát nhập (M&A)
Đầu tư mới: là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển.
Mua lại và sát nhập: là hình thức chủ đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các doanh nghiệp hiện có. Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển, các nước NICs và rất phổ biến trong những năm gần đây.
1.1.3.6. Các hình thức FDI theo quy định của luật pháp Việt Nam
Tại Việt Nam, FDI chủ yếu vẫn được thực hiện dưới các hình thức đầu tư mới. Luật Đầu tư được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã công nhận hình thức mua lại và sáp nhập là một hình thức FDI mới, là một điểm bổ sung cho Luật Đầu tư năm 1996. Cụ thể, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp được đầu tư bằng 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài, thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do họ thành lập tại nước nhận đầu tư và họ tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Xu hướng thành lập doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài cũng như chuyển đổi từ hình thức khác sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng gia tăng.
Thứ hai là doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức FDI khá phổ biến ở Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với nhà đầu tư trong nước để thành lập nên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Các cá nhân, pháp nhân nước ngoài cùng góp vốn với cá nhân, pháp nhân nước sở tại, cùng quản lý, cùng kinh doanh và cùng phân phối lợi nhuận, dựa vào kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp liên doanh phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nước sở tại. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định. Đối với những cơ sở sản xuất quan trọng do Chính phủ quyết định, các bên có thể thoả thuận về tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong liên doanh.
Thứ ba là hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực khai thác, thăm dò tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, than đá, khoáng sản,… Hợp đồng BCC được ký giữa hai hay nhiều nhà đầu tư để cùng nhau tiến hành hợp tác sản xuất kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, trong đó các bên thỏa thuận quy định về đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên, quan hệ hợp tác và tổ chức quản lý giữa các bên. Hình thức BCC không thành lập nên các pháp nhân. Trong quá trình đầu tư, các bên hợp doanh có thể thoả thuận lập ban điều hành để thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước nhận đầu tư với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để xây dựng, khai thác kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, khi xây dựng xong sẽ chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Sau đó nhà đầu tư sẽ được Chính phủ Việt Nam dành cho quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận.
Đối với hình thức hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), sau khi xây dựng và chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc được tạo điều kiện thực hiện dự án đầu tư khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Thứ tư là các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Cho đến nay, các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và đầu tư theo hợp đồng như hợp đồng BCC, BOT vẫn là những hình thức phổ biển, được các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ưa chuộng. Ngoài ra, theo Luật đầu tư của Việt Nam năm 2005 cũng quy định một số hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Đầu tư phát triển kinh doanh: Những nhà đầu tư nước ngoài đang thực hiện đầu tư tại Việt Nam được phép đầu tư để phát triển hoạt động kinh doanh đó như mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh hoặc đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và giảm ô nhiễm môi trường.
Góp vốn mua cổ phẩn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư: Nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có quyền góp vốn, mua cổ phần của các công ty chi nhánh tại Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư được Chính phủ Việt Nam quy định cụ thể đối với một số ngành và lĩnh vực. Khi đó, nhà đầu tư sẽ có quyền tham gia quản lý hoạt động của công ty mà mình góp vốn và mua cổ phần, đồng thời phải thực hiện đúng những nghĩa vụ quy định về tỷ lệ vốn góp, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Mua lại và sáp nhập (M&A): Tại Việt Nam, hình thức mua lại và sáp nhập mới được công nhận và quy định trong Luật đầu tư 2005. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp, điều kiện tập trung kinh tế và pháp luật về cạnh tranh. Đây là một điểm mới trong nỗ lực cải thiện môi trường luật pháp để thu hút tối đa dòng vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, đồng thời có thể nắm bắt được xu hướng tất yếu của dòng đầu tư quốc tế.
1.1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của cá nước đặc biệt là các nước là các nước đang phát triển. Ảnh hưởng của FDI đã tác động trên cả ba mặt : kinh tế, chính trị , xã hội.
1.1.4.1. ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế.
FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn – ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào “ vòng luẩn quẩn” đó là : thu nhập thập dẫn đến tiết kiệm thấp, vì đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẩn quẩn”này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động…Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước thì hậy quả khó tránh khỏi tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó, vốn nước ngoài sẽ là một “ cú hích” để góp phần phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa, FDI còn là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngọai tệ từ các họat động dịch vụ phục vụ cho FDI.
1.1.4.2 ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới hình thức: chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs và chuyển giao giữa các chi nhánh TNCs. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng trưởng năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các họat động nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các họat động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp ĐTNN đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngòai, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…. công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng thành công của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy được tăng trưởng.
1.1.4.3 ĐTNN góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới.
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh : xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất, nhập khẩu bổ sung các hàng hóa, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng, xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi vì, hầu hết các họat động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng hẹn….
1.1.4.4 ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN
FDI mở rộng các nguồn thu thuế ở nước chủ nhà và đóng góp cho nguồn thu của chính phủ. Thậm chí trong trường hợp nếu các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư thì chính phủ vẫn có được nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi vì FDI tạo ra các việc làm mới, ngoài ra, nếu FDI định hướng xuất khẩu tạo ra khoản thu ngoại tệ.
1.1.4.5 ĐTNN góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động.
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng t