Thụ lý là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Toà án, trả lại đơn kiện cung là một khâu trong TTDS. Nếu không có thụ lý sẽ không làm phát sinh những quy định của pháp luật TTDS về thụ lý vụ án và giải quyết vụ án dân sự.
Trong phạm vi một bài tập cuối kỳ em xin trình bày về các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về thụ lý, trả lại đơn kiện bao gồm các nội dung sau:
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4219 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT CHUNG
1 Thụ lý vụ án dân sự
1.1 Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
1.2 Ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
2 Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ THỤ LÝ VÀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
1. Các quy định về thụ lý vụ án dân sự
2. Các quy định của BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
2.1 Những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện
2.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH TRONG VIỆC THỤ LÝ, TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
Về trình tự nhận và giải quyết đơn
Về hình thức văn bản
Về thủ tục nộp tiền tạm ứng phí
Về quy định chuyển đơn khởi kiện
IV. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án dân sự
2. Kiến nghị hoàn thiện việc trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
C. KẾT LUẬN
A. MỞ ĐẦU
Thụ lý là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Toà án, trả lại đơn kiện cung là một khâu trong TTDS. Nếu không có thụ lý sẽ không làm phát sinh những quy định của pháp luật TTDS về thụ lý vụ án và giải quyết vụ án dân sự.
Trong phạm vi một bài tập cuối kỳ em xin trình bày về các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về thụ lý, trả lại đơn kiện bao gồm các nội dung sau:
B. NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT CHUNG
1 Thụ lý vụ án dân sự
1.1 Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Theo các điều 167, 168 Bộ luật TTDS, sau khi nhận được đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo thì tòa án phải vào sổ nhận đơn và xem xét. Trong trường hợp thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì tòa án phải báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi người khởi kiện nộp cho tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án quyết định nhận giải quyết và vào sổ thụ lý vụ án dân sự. Các hoạt động đó của tòa án được gọi là thụ lý vụ án dân sự
Thụ lý vụ án dân sự là việc toà án có thẩm quyền chấp nhận giải quyết đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thụ lý vụ án là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng do toà án thực hiên.
Thụ lý vụ án là công việc đầu tiên của toà án trong quá trình tố tụng. Nếu không có việc thụ lý vụ án của tòa án sẽ không có các bước tiếp theo của quá trình tố tụng.
Hoạt động thụ lý bao gồm hai hoạt động cơ bản là nhận đơn khởi kiện xem xét và vào sổ thụ lý. Nhưng trong đó lại có rất nhiều công việc cụ thể khác nhau như: tiếp nhận đơn khởi kiện, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện đã đầy đủ theo quy định pháp luật hay chưa, kiểm tra các điều kiện thụ lý khác như điều kiện về chủ thể, điều kiện về thời hiện khởi kiện, thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí và vào sổ thụ lý.
1.2 Ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
Việc thụ lý vụ án dân sự có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó đặt trách nhiệm cho tòa án phải giải quyết vụ án trong thời gian luật định. Sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán phải triệu tập các đương sự đến tòa để xác minh và hòa giải, đối với những việc pháp luật quy định không được hòa giải thì phải khẩn trương hoàn thiện hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.
Thụ lý vụ án dân sự còn có ý nghĩa thiết thực bảo đảm việc bảo việc bảo vệ kịp thời những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động và hôn nhân gia đình; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin của dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó tòa án là cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết.
Ngoài ra, việc tòa án thụ lý vụ án sẽ là một trong những căn cứ để xác định các thời hạn tố tụng như quy định tại Điều 157 BLTTDS.
2 Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
Trả lại đơn khởi kiện là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện bởi thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý vụ án. Điều kiện khởi kiện gồm:
Về chủ thể khởi kiện
- Cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm.
- Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
- Vụ án mà họ khởi kiện thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của tòa án quy định tại điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS.
- Vụ án được khởi kiện phải đúng với cấp tòa án có thẩm quyền giải quyết quy quy định tại Điều 33, 34 BLTTDS.
- Vụ việc được khởi kiện phải đúng thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 35 BLTTDS.
- Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó. Theo quy định của pháp luật hiện hành những việc này bao gồm:
+ Các tranh chấp về quyền sử dụng đất;
+ Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra;
+ Tranh chấp lao động, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ THỤ LÝ VÀ TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
1. Các quy định về thụ lý vụ án dân sự
- Nhận đơn khởi kiện
Theo quy định tại Điều 167 BLTTDS, tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại tòa án hoặc gửi qua bưu điện và ghi vào sổ nhận đơn. Ttrong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết.
+ Chuyển đơn khởi kiện cho tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án khác.
+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
- Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện
Theo quy định tại Điều 169 BLTTDS, trong trường hợp đơn khởi kiện không có các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS thì tòa án thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung trong một thời hạn do tòa án ấn định nhưng không quá 30 ngày; trong trường hợp đặc biệt, tòa án có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định của BLTTDS thì tòa án tiếp tục thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của tòa án thì tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
- Xác định tiền tạm ứng phí và thông báo cho người khởi kiện.
Điều 171 BLTTDS quy định, sau khi nhận đơn khởi kiện và tại liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án thì tòa án phải xác định tiền tạm ứng phí và thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Tòa án dự tính số tiền tạm ứng, ghi vào phiếu báo và gia cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phi, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
- Vào sổ thụ lý vụ án dân sự
Khi người khởi kiện nộp cho tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án ra quyết định thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án dân sự.
Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo.
2. Các quy định của BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
2.1 Những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện
Khi xem xét thụ lý vụ án, nếu thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý được vụ án thì Toà án trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.
Theo khoản 1 Điều 168 BLTTDS:
1.Toà án có quyền trả lại đơn kiện cho người nộp đơn trong những trường hợp sau:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp mà vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mườn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của bộ luật này mà người khởi kiện chưa đến toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ngoài ra toà án trả lại đơn khởi kiện theo khoản 2 Điều 169 BLTTDS trong trường hợp “…Nếu họ không sửa đổi bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện”.
Phần lớn các trường hợp trả lại đơn khởi kiện được quy định trong BLTTDS nêu trên đều đã được Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây quy định chỉ có ba trường hợp mới cần lưu ý bao gồm:
- Người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn theo quy định. Pháp lện thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây cũng ấn định thời hạn một tháng để người khởi kiện thực hiện nghĩa vụ tạm ứng án phí nhưng lại không quy định hậu quả pháp lý của việc không nộp tiền tạm ứng án phí trong hạn luật định. Quy định mới này nhằm mục đích buộc người khởi kiện phải cân nhắc kỹ hơn trước khi nộp đơn khởi kiện.
- Người khởi kiện chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Có quan điểm cho rằng đây là trường hợp đã được quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lnehj thủ tục giải quyết các vụ án dâ sự được áp dụng đối với những việc được pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước nhưng đương sự chưa yêu cầu hoặc cơ quan hữu quan chưa giải quyết. Đó là những trường hợp mà trước khi khởi kienj đến tòa án vụ việc phải được tiến hành hòa giải trước, tòa án chỉ thụ lý khi việc hòa giải không thành như: Tranh chấp quyền sử dụng đất; các tranh chấp lao động cá nhâ hay tranh chấp lao động tập thể... Tuy nhiên, quy định này của Bộ luật TTDS có nội dung rộng hơn, theo quy định của pháp luật thì có những trường hợp người khởi kiện nếu không đáp ứng các điều kiện khác thì cũng không được khởi kiện. Ví dụ: người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi người vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hay trường hợp tòa án đã bác đơn xin ly hôn nhưng chưa đủ 1 năm người bị bác đơn đã nộp đơn khởi kiện lại...
- Người khởi kiện không bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn theo quy định của pháp luật. Đây là quy định hoàn toàn mới có ý nghãi buộc người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh ngay từ những bước đầu tiên của quá trình tố tụng tại tòa án, bởi các quy định của Bộ luật TTDS hienj nay đề cao vai trò, nghĩa vụ chứng minh của đương sự, việc thu thập chứng cứ của tòa án là hạn chế không phải trường hợp nào tòa án cũng thu thập chứng cứ.
2.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện
Khi trả lại đơn kiện cho người khởi kiện, tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn kiện để người khởi kiện có căn cứ khiếu nại về việc trả lại đơn kiện. Đây là quy định mới giúp cho các đương sự thực hiện quyền khiếu nại khi họ bị tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng. Theo Điều 170 Bộ luật TTDS thì người khởi kiện có quyền khiếu nại với chánh án tòa án đã trả lại đơn kiện trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày họ nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo do tòa án trả lại. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, chánh án phải ra một trong các quyết định sau:
- Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
- Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH TRONG VIỆC THỤ LÝ, TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN
Về trình tự nhận và giải quyết đơn
Theo hướng dẫn tại Mục 6 Phần I Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC “Đối với TAND huyện, quân, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án cấp huyện) thì Chánh án hoặc Phó Chánh án được ủy nhiệm phân công cho một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Đối với TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.. thì Chánh án hoặc Phó Chánh án được ủy nhiệm. Chánh tòa hoặc Phó Chánh tòa được Chánh án ủy quyền phân công cho một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện”. Theo quy định này thì mỗi khi có một đơn khởi kiện được gửi đến Tòa mới thực hiện việc phân công xem xét đơn khởi kiện. Như vậy, phải qua nhiều khâu mất nhiều thời gian
Về hình thức văn bản
Điều 171 BLTTDS: “Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng phí”. Như vậy, ĐIều luật này đã không quy định bất kì một hình thức văn bản nào để xác nhận việc Tòa án thụ lý vụ án. Khoản 2 ĐIều 168 BLTTDS quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn kiện”, nhưng điều luật lại không xác định cụ thể loại hình thức văn bản nào cần được áp dụng, quyết định, thông báo hay công văn…?
Về thủ tục nộp tiền tạm ứng phí
Theo quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS: “1…nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng phí…2. Tòa án dự tính số tiền tạm ứng phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện…”. Hiện nay, chưa có hướng dẫn thủ tục nộp tiền tạm ứng phí như thế nào và chưa có quy định hình thức của phiếu báo. Thực tiễn tố tụng cho thấy các Tòa ấn có nhiều cách vận dụng khác nhau. Thông thường các Tòa án viết giấy báo yêu cầu người khởi kiện đến Tòa án nhận thông báo nộp tiền tạm ứng án phí rồi đi nộp. Cách làm này gây khó khăn cho người khởi kiện nếu họ ở xa sẽ phải đi lại nhiều lần, các đương sự khi đọc thông báo thường hiểu lầm là phải nộp tạm ứng án phí tại Tòa án… Một số Tòa án ghi ngay số tiền tạm ứng phí mà người khởi kiện phải nộp và ghi rõ nơi nộp tiền tạm ứng án phí vào thông báo cho người khởi kiện để họ có thể chuẩn bị tiền đi nộp, sau đó nộp lại biên lai nộp tiền tạm ứng phí cho Tòa án. Cách làm này đã giảm bớt khó khăn trong việc đi lại cho người khởi kiện và tiết kiệm được thời gian.
Về quy định chuyển đơn khởi kiện
tại khoản 2 Điều 167 BLTTDS quy định: “Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác”. Theo quy định tại Điều luật này và hướng dẫn tại tiết b Tiểu mục 6.4 Mục 6 Phần I Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTPTANDTC thì vừa phải thông báo cho người khởi kiện vừa phải ra quyết định để gửi cho người khởi kiện và những người có liên quan như vậy không cần thiết. Hơn nữa, theo quy định này thì Tòa án đã nhận đơn sẽ chuyển đơn đến Tòa án có thẩm quyền hay để cho đương sự tự mang đến Tòa án có thẩm quyền nộp?
IV. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đồng thời để khắc phục những vướng mắc tồn tại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, cần phải được nghiên cứu, đánh giá và có phương hướng hoàn thiện kịp thời. Cụ thể:
1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án dân sự
- Về trình tự giải quyết đơn, nên quy định mỗi Tòa án có một bộ phận chuyên trách giải quyết đơn. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ trực tiếp nhận đơn do đương sự nộp và giải quyết đơn như xem xét thụ lý, chuyển đơn đến Tòa án có thẩm quyền hoặc trả lại đơn khởi kiện. Quy định như vậy sẽ giảm bớt thời gian thụ lý, bảo đảm tính chuyên môn, nâng cao được trách nhiệm của cán bộ được phân công thụ lý vụ án.
- Về hình thức, BLTTDS nên bổ sung quy định hoạt động thụ lý vụ án phải được thể hiện bằng một quyết định trong đó ghi số, ngày tháng năm thụ lý, ghi rõ tranh chấp phải được giải quyết, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (nếu có)…
- Việc chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền, cần sửa đổi khoản 2 Điều 167 BLTTDS trong đó quy định rõ trường hợp cần phải chuyển đơn khởi kiện. Đồng thời quy định việc chuyển đơn khởi kiện phải được thực hiện và gửi cho người khởi kiện một bản. Ngoài ra, pháp luật cũng cần quy định rõ chủ thể có trách nhiệm chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền.
- Về thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. nên sửa đổi Điều 171 BLTTDS quy định trong trường hợp người khởi kiện để họ đi nộp. Thông báo phải ghi rõ các nội dung: số tiền tạm ứng án phí, thời hạn, địa điểm nộp tiền tạm ứng án phí và thời hạn nộp lại biên lai cho Tòa án. Quy định như vậy sẽ đảm bảo tính rõ ràng của thông báo, thuận tiện và đỡ gây tốn kém cho đương sự.
2. Kiến nghị hoàn thiện việc trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
- Cần phải ra quyết định trả lại đơn khởi kiện phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật vì cho dù là ai thực hiện hành vi trả lại đơn khởi kiện cho đương sự thì văn bản do Tòa án phát ra đều có chữ ký và con dấu của Tòa án đó. Mà thực tế chỉ có những người có chức danh trong Tòa án mới có quyền ký tên, đóng dấu; do đó, khi trả lại đơn khởi kiện nên ra bằng hình thức quyết định là thích hợp nhất.
- Điểm đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS quy định trường hợp người khởi kiện chưa có đủ điều kiện khởi kiện sẽ bị trả đơn khởi kiện. Tuy nhiên, hiểu đúng điều luật này như thế nào thì hiện nay vẫn còn những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng đây là trường hợp đã được quy định tại khoản 4 Điều 36 PLTTGQCVADS được áp dụng đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước nhưng đương sự chưa yêu cầu hoặc cơ quan hữu quan chưa giải quyết. Đó là những trường hợp mà trước khi khởi kiện đến Tòa án vụ việc phải được tiến hành hòa giải trước, Tòa án chỉ thụ lý khi việc hòa giải không thành như: tranh chấp về quyền sử dụng đất, các tranh chấp lao động… Song theo quan điểm khác thì quy định này của BLTTDS có nội dung rộng hơn, cụ thể: trường hợp khởi kiện nếu không đáp ứng các điều kiện khác thì cũng không được khởi kiện. Ví dụ, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi người vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Pháp luật cần có quy định về cách hiểu thông nhất trong trường hợp này để áp dụng cho đúng.
C. KẾT LUẬN
Thụ lý vụ án là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Toà án. nếu không có thụ lý sẽ không làm phát sinh những quy định của pháp luật TTDS về thụ lý vụ án và giải quyết vụ án dân sự.
Pháp luật TTDS về thụ lý vụ án và trả lại đơn khởi kiện đã quy định khá chi tiết và đẩy đủ pháp luật về vấn đề này. Tuy nhiên trong thực tế áp dụng BLTTDS cho thấy vẫn còn một só quy định chưa phù hợp dẫn tới cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho Toà án trong việc áp dụng. Những hạn chế này một mặt có nguyên nhân là do các quy định của pháp luật chưa đẩy đủ và rõ ràng, mặt khác do sự yếu kém về nghiệp vụ hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, thẩm phán. để đáp ứng được đỏi hỏi của thực tiễn đối với quy định này cần có sự sửa đổi bổ sung những thiếu sót để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật TTDS, để góp phần tạo ra sự đúng đắn của pháp luật và sự tin tưởng của người dân vào pháp luật. Tạo ra một hệ thống pháp chế Xã hội chủ nghĩa đẩy đủ hơn theo đúng bản chất của nó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Thanh Huyền, “Trình tự thủ tục giải quyết các việc dân sự theo qui định của bộ luật tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2006.
Trần Thị Bích Hà, “Thủ tục giải quyết vụ việc dân sự”, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011.
Liễu Thị Hạnh, “Thụ lý vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2006.
Đào Thị Hải Yến, “Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2010.
Trần Thị Bích Thủy, “Thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng dân sự”, Khóa luận tốt nghi