Đề tài Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự

Tranh luận tại PTHS là sự biểu hiện tập trung cao độ nhất của quá trình tranh tụng dân chủ giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tranh luận cũng là một thủ tục bắt buộc, là phần trọng tâm của toàn bộ quá trình xét xử vụ án hình sự. Thông qua hoạt động tranh luận, đối đáp được tiến hành một cách dân chủ, công khai và không bị giới hạn về thời gian tại phiên tòa giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa, HĐXX có thể xác định đúng và đầy đủ về các tình tiết khách quan làm cơ sở để ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cải cách tư pháp được coi là một bộ phận, một nội dung cơ bản của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 08-NQ/TW) đã chỉ rõ: “ Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định ”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 49-NQ/TW) tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp ở nước ta là “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lương tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ”. Trước khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại PTHS chủ yếu tập trung vào việc đọc cáo trạng, trình bày lời luận tội mà chưa chú trọng đến việc tranh luận cũng như đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nhằm khắc phục tình trạng này và kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, BLTTHS năm 2003 đã giành Chương XXI (từ Điều 217 - 221) quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục tranh luận tại PTHS. Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp tại phiên toà nói chung và của KSV nói riêng với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét. Hoạt động tranh luận, đối đáp của KSV để bác bỏ các quan điểm không có căn cứ của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không chỉ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan về các tình tiết của vụ án mà còn phần nào khắc phục được tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng phê phán gay gắt. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cho thấy nhìn chung chất luợng, hiệu quả xét xử nói chung và hoạt động tranh luận tại các phiên toà hình sự nói riêng chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: BLTTHS hiện hành nói chung chưa quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng; các quy định về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên toà nói riêng không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia tranh tụng; kỹ năng của đội ngũ TP, KSV và LS còn nhiều hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao; Liên quan đến vấn đề tranh luận tại PTHS đã có một số công trình khoa học quan tâm nghiên cứu ở phạm vi và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của vấn đề tranh luận như: về kỹ năng và văn hóa khi tranh luận; địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tranh luận; tranh luận tại PTHS sơ thẩm hoặc tại PTHS phúc thẩm, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về thủ tục tranh luận tại các PTHS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và đầy đủ hơn về thủ tục tranh luận tại PTHS vẫn là cần thiết. Tất cả các luận cứ nêu trên chính là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự” để làm luận văn thạc sĩ luật học.

doc70 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3202 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tranh luận tại PTHS là sự biểu hiện tập trung cao độ nhất của quá trình tranh tụng dân chủ giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tranh luận cũng là một thủ tục bắt buộc, là phần trọng tâm của toàn bộ quá trình xét xử vụ án hình sự. Thông qua hoạt động tranh luận, đối đáp được tiến hành một cách dân chủ, công khai và không bị giới hạn về thời gian tại phiên tòa giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa, HĐXX có thể xác định đúng và đầy đủ về các tình tiết khách quan làm cơ sở để ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cải cách tư pháp được coi là một bộ phận, một nội dung cơ bản của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 08-NQ/TW) đã chỉ rõ: “…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác …Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định…”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 49-NQ/TW) tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp ở nước ta là “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lương tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”. Trước khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại PTHS chủ yếu tập trung vào việc đọc cáo trạng, trình bày lời luận tội mà chưa chú trọng đến việc tranh luận cũng như đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nhằm khắc phục tình trạng này và kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, BLTTHS năm 2003 đã giành Chương XXI (từ Điều 217 - 221) quy định cụ thể và đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục tranh luận tại PTHS. Vì vậy, hoạt động tranh luận, đối đáp tại phiên toà nói chung và của KSV nói riêng với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét. Hoạt động tranh luận, đối đáp của KSV để bác bỏ các quan điểm không có căn cứ của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không chỉ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan về các tình tiết của vụ án mà còn phần nào khắc phục được tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng phê phán gay gắt. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cho thấy nhìn chung chất luợng, hiệu quả xét xử nói chung và hoạt động tranh luận tại các phiên toà hình sự nói riêng chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: BLTTHS hiện hành nói chung chưa quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng; các quy định về trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên toà nói riêng không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia tranh tụng; kỹ năng của đội ngũ TP, KSV và LS còn nhiều hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao;… Liên quan đến vấn đề tranh luận tại PTHS đã có một số công trình khoa học quan tâm nghiên cứu ở phạm vi và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của vấn đề tranh luận như: về kỹ năng và văn hóa khi tranh luận; địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tranh luận; tranh luận tại PTHS sơ thẩm hoặc tại PTHS phúc thẩm,…mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về thủ tục tranh luận tại các PTHS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và đầy đủ hơn về thủ tục tranh luận tại PTHS vẫn là cần thiết. Tất cả các luận cứ nêu trên chính là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng nói chung và tranh luận tại PTHS nói riêng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau như: Luận văn thạc sĩ luật học “Vấn đề tranh tụng trong Tố tụng hình sự” của Nguyễn Đức Mai (1996) ; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” (2007) và “Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm” (2008) của TS. Dương Thanh Biểu; Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh (2003); Luận văn thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Hà (2010) ; Luận văn thạc sĩ luật học “Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Hà Minh Hải (2007) ; “Hoàn thiện các quy định củaBộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - cơ sở lý luận và thực tiễn” Đề tài khoa học cấp cơ sở TANDTC (2011), Chủ nhiệm - TS. Nguyễn Đức Mai;… Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về các vấn đề có liên quan đến tranh luận tại PTHS như: “Đặc điểm mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình Tố tụng hình sự ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Đức Mai (2009),Tạp chí TAND,(23-24); “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về phạm vi tranh luận và chủ thể tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của ThS. Hồ Đức Anh (2007), Tạp chí Kiểm sát,(20); “Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng và tranh luận để nâng cao kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự” của ThS. Nguyễn Hữu Hậu (2006), Tạp chí Kiểm sát, (8); “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của Th.s Phạm Quang Định (2009), Tạp chí Kiểm sát, (2); “Kỹ năng và văn hóa tranh luận tại phiên tòa” của LS Lê Đức Tiết (2005),Tạp chí Kiểm sát, (12); “Một số vấn đề về văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên tại phiên tòa” của TS Đinh Xuân Nam (2006), Tạp chí Kiểm sát,(8);… Qua nghiên cứu các công trình nêu trên thấy rằng nhìn chung các tác giả mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh (nội dung) nhất định của vấn đề nghiên cứu như: về tranh luận của KSV, của người bào chữa nói chung hoặc về tranh luận tại một PTHS (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ về vấn đề tranh luận tại các PTHS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu có hệ thống, toàn diện, đầy đủ hơn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn tranh luận tại các PTHS qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao chất lượng tranh luận tại các PTHS vẫn là nhiệm vụ rất cần thiết của khoa học luật TTHS. 3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những vấn lý luận về thủ tục tranh luận tại PTHS, chức năng và vai trò của các chủ thể trong quá trình tranh luận tại phiên tòa, thực trạng tranh luận cũng như những bất cập của các quy định pháp luật hiện hành để từ đó làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh luận tại PTHS. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thủ tục tranh luận tại PTHS, đưa ra khái niệm tranh luận tại PTHS, chức năng và vai trò của các chủ thể cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tranh luận tại PTHS. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về tranh luận tại PTHS; đánh giá thực trạng hoạt động tranh luận tại các PTHS và chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn. - Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục cũng như nâng cao chất lượng tranh luận tại PTHS. * Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ: - Một số vấn đề lý luận về thủ tục tranh luận tại PTHS; - Quy định của pháp luật hiện hành về tranh luận tại PTHS; - Thực trạng hoạt động tranh luận tại các PTHS những năm gần đây và những bất cập, vướng mắc; - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về thủ tục tranh luận cũng như nâng cao chất lượng tranh luận tại PTHS. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong nội dung của luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở một số vấn đề sau: Khái niệm thủ tục tranh luận tại PTHS; chức năng và vai trò của các chủ thể trong tranh luận; nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về tranh luận tại các PTHS và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành và nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên toà hình sự. Mặt khác, để luận văn có tính chuyên sâu, tác giả tập trung nghiên cứu chủ yếu về tranh luận tại PTHS sơ thẩm và phúc thẩm. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp trong thời kỳ mới. Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rõ những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê. 6. Kết quả nghiên cứu của đề tài - Đưa ra khái niệm tranh luận tại PTHS; phân tích làm rõ chức năng và vai trò của các chủ thể trong tranh luận tại PTHS. - Thực trạng tranh luận và những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về tranh luận tại PTHS. - Đề xuất sửa đổi một số quy định của BLTTHS và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng tranh luận tại PTHS. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự. Chương 2. Thực tiễn tranh luận tại phiên tòa hình sự và một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa hình sự Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự 1.1.1. Trình tự, thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự Trong phần tranh luận tại PTHS dưới sự giám sát của HĐXX và sự điều khiển của Chủ toạ phiên toà, các chủ thể của bên buộc tội (KSV, người bị hại, nguyên đơn dân sự,…) và của bên bào chữa (người bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự,…) chính thức đưa ra các chứng cứ, các quan điểm, lập luận của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án để làm cơ sở cho HĐXX đưa ra phán quyết về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có thể nói tranh luận tại PTHS là phần trọng tâm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ quá trình xét xử vụ án. Mặt khác, hoạt động tranh luận công khai của các bên tại PTHS còn là sự thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ, bình đẳng và công bằng của tư pháp hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Để làm rõ tranh luận tại phiên toà, trước hết cần làm sáng tỏ các khái niệm, “thủ tục tranh luận” đồng thời cần phân biệt giữa hai khái niệm “tranh luận” và “tranh tụng” tại phiên toà hình sự. Theo Từ điển Luật học thì “Thủ tục tố tụng” là “Cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo quy định của pháp luật” [6, tr.729], còn “tranh luận” tại phiên toà là “Hoạt động của những người tham gia tố tụng (các bên) tại phiên toà, trong việc trao đổi, bàn cãi các ý kiến về vụ án” [6, tr.807]. “Tranh luận trước Toà án là một phần xét xử vụ án tại phiên toà, trong đó Công tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người bào chữa (trường hợp không có người bào chữa thì bản thân bị cáo) phát biểu, phân tích các chứng cứ được đưa ra xem xét, trình bày kết luận của mình về vụ án” [30, tr.251] . Như vậy, từ các nghĩa nêu trên thì “Trình tự tranh luận tại phiên toà hình sự có thể được hiểu là cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành hoạt động tố tụng ở phần tranh luận tại phiên toà, trong đó các chủ thể của bên buộc tội và của bên bào chữa phát biểu ý kiến, phân tích các chứng cứ được đưa ra xem xét và trình bày kết luận của mình về vụ án”. Hoạt động này của các chủ thể tham gia tranh luận được xác định về mặt không gian, thời gian, được tiến hành theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định và chỉ kết thúc khi các chủ thể đã tìm ra lẽ phải - sự thật khách quan về vụ án. Thủ tục tranh luận tại các PTHS (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) được pháp luật quy định khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất xét xử vụ án. Theo nguyên tắc “Hai cấp xét xử”, sơ thẩm và phúc thẩm là hai cấp xét xử vì vậy phần tranh luận tại hai phiên tòa này được nối tiếp sau khi kết thúc phần xét hỏi và bắt đầu bằng việc KSV trình bày lời luận tội (tại phiên toà sơ thẩm) hoặc phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án (tại phiên toà phúc thẩm). Tiếp theo bị cáo trình bày lời bào chữa sau đó nếu bị cáo có người bào chữa thì người này trình bày lời bào chữa và bị cáo bào chữa bổ sung; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày, bổ sung ý kiến (Điều 217 và Điều 247 BLTTHS). Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, việc triệu tập những người tham gia tố tụng không phải là bắt buộc mà chỉ khi xét thấy cần thiết, thì TA mới triệu tập họ đến phiên toà. Vì vậy, trình tự tranh luận tại các phiên tòa này được quy định ngược lại so với ở phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm:…Các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm (tái thẩm) phát biểu ý kiến và đại diện VKS phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Nếu đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi liên quan đến việc kháng nghị, thì họ có quyền trình bày ý kiến trước khi KSV phát biểu ý kiến…(Điều 282 và Điều 297 BLTTHS). Luận tội là “xem xét, cân nhắc để định tội” [4, tr.1059]. Như vậy, luận tội của KSV được hiểu là hoạt động của KSV theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm. Nếu cáo trạng (quan điểm của VKS truy tố bị can ra trước TA) là sự mở đầu cho giai đoạn xét xử vụ án hình sự, thì tại phiên toà sơ thẩm lời luận tội của KSV (hình thức pháp lý thể hiện quan điểm của VKS về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án) là sự mở đầu cuộc tranh luận, đối đáp giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa. Ngoài việc trình bày lời luận tội, KSV còn phải đưa ra những chứng cứ, lập luận của mình để đáp lại ý kiến của những người tham gia tranh luận về nội dung luận tội và các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Theo Đại Từ điển TiếngViệt thì đối đáp là “trả lời lại” [11, tr.547]. Như vậy, trong TTHS “đối đáp” được hiểu “là các quan điểm, luận cứ của Kiểm sát viên trong việc trả lời đối với các ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người tham gia tố tụng về luận tội; là sự trả lời đáp lại ý kiến giữa những người tham gia tranh luận” [9, tr.275] Theo quy định tại Điều 218 và 247 BLTTHS thì KSV phải đáp lại tất cả ý kiến của những người tham gia tranh luận đồng thời phải đưa ra những chứng cứ, lập luận của mình để phản bác ý kiến không có căn cứ của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác về lời luận tội (hoặc quan điểm về việc giải quyết vụ án) của VKS. Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ hoặc theo đề nghị của KSV, những người tham gia tranh luận hoặc Chủ tọa phiên tòa thấy cần phải quay trở lại việc xét hỏi thì HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi sau đó việc tranh luận lại được thực hiện bình thường. Tuy nhiên, để tránh kéo dài thời gian không cần thiết, Chủ tọa phiên tòa có thể lưu ý đối với KSV và những người tham gia tranh luận chỉ tranh luận những vấn đề mới phát sinh sau khi xét hỏi thêm. Nếu những người tham gia tranh luận không còn ý kiến gì khác, Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần tranh luận và cho phép bị cáo được nói lời sau cùng. Như vậy, có thể nói rằng phần tranh luận tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm được kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng tức là lời nói sau cùng của bị cáo không thuộc phần tranh luận tại phiên toà. Theo quy định tại Điều 280 và Điều 297 của BLTTHS, thì khi xét thấy cần thiết TA phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và có thể triệu tập những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm (tái thẩm). Nếu đã triệu tập thì họ lại trình bày ý kiến trước khi đại diện VKS phát biểu. Thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy các TA hầu như không triệu tập người bị kết án, người bào chữa và đương sự tham gia phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, có thể rút ra một số nhận xét sau: 1) Tranh luận là một phần (bộ phận), một thủ tục bắt buộc của phiên toà và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình xét xử vụ án. Các quan điểm khác nhau của các bên về vụ án giúp cho HĐXX có thể xác định được đầy đủ và toàn diện các tình tiết khách quan của vụ án để có phán quyết đúng đắn, chính xác về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. 2) Hoạt động tranh luận tại phiên toà được bắt đầu bằng việc KSV trình bày lời luận tội (ở phiên toà sơ thẩm) hoặc quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án (ở phiên toà phúc thẩm) và kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng. 3) Ý nghĩa và nội dung của tranh luận chỉ thể hiện một cách đầy đủ nhất tại phiên toà sơ thẩm. Ở phiên toà phúc thẩm ý nghĩa và nội dung của nó bị hạn chế hơn (do phúc thẩm là cấp xét xử lại vụ án). Còn ở phiên toà giám đốc thẩm (tái thẩm) thì tranh luận hoàn toàn mang tính chất phiến diện (một chiều) do tính chất của nó là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào tính chất xét xử vụ án hình sự, có thể phân tranh luận tại phiên tòa thành: Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm; Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm và tranh luận tại phiên tòa giám đốc thẩm (tái thẩm). 1.1.2. Mục đích, phạm vi và nội dung tranh luận tại phiên tòa hình sự * Mục đích: Mục đích của tranh luận tại PTHS là nhằm để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên toà và các quy định của pháp luật, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết khách quan và hướng giải quyết vụ án nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận đề nghị của mình và bác bỏ quan điểm, lập luận của phía bên kia. Như vậy, có thể thấy rằng tranh luận tại PTHS có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với quá trình xét xử vụ án thể hiện ở một số điểm sau đây: - Tranh luận tại phiên tòa thể hiện không chỉ tính minh bạch, công khai và dân chủ của TTHS mà cả bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân. - Việc tranh luận, đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác sẽ làm cho phiên tòa khách quan, sống động hơn, góp phần xóa bỏ tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi’ đã tồn tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng phê phán, đồng thời nâng cao uy tín của VKS, TA cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý . * Phạm vi: Như đã trình bày ở trên, hoạt động tranh luận, đối đáp của các chủ thể thuộc bên buộc tội và bào chữa tại PTHS được giới hạn về mặt không gian và thời gian. Về mặt không gian, hoạt động tranh luận các chủ thể tại PTHS chỉ có thể được thực hiện tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Về mặt thời gian thì thủ tục tranh luận được bắt đầu ngay sau khi Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần xét hỏi tiếp đến KSV trình bày lời luận tội (ở phiên tòa sơ th
Luận văn liên quan