Ngày nay, khi mà nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới đang trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế có lẽ vấn đề nóng hổi nhất trên mọi phương tiện thông tin
đại chúng đó là chứng khoán. Bao giờ cũng vậy người ta luôn dồn mọi sự quan tâm
đến những cái mới mà ít ai để ý thấy rằng những thông tin về thị trường xuất nhập
khẩu mới là bản tin thường trực nhất trên các phương tiện thông tin ấy. Điều đó phần
nào cho thấy được tầm quan trọng vô cùng của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền
kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Song hành với sự ra đời và
l ớn mạnh của những nền kinh tế theo cơ chế thị trường là từng ấy năm phát triển của
hoạt động ngoại thương mà chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các
quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu được của một quốc gia, nó
góp một phần quan trọng trong GDP của một nước. Ở Việt Nam, hoạt động xuất khẩu
các sản phẩm nông sản đã đem lại nguồn thu nhập rất lớn phục vụ cho việc xây dựng
và phát triển đất nước. Trong đó không thể không nhắc tới những sản phẩm nổi tiếng
đã đem lại vị thế cho Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản như gạo, cà
phê, tiêu, điều. đặc biệt là sản phẩm cà phê, là hàng nông sản xuất khẩu có giá trị
nhất của Việt Nam. Chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn mà ngành cà phê
đã mang lại cho đất nước thông qua họat động xuất khẩu, nhưng trong một vài niên vụ
gần đây, sản phẩm cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã bị những đánh giá không tốt từ
phía các đối tác nước ngoài, đây là một tín hiệu cho thấy Việt Nam cần có sự quan tâm
hơn nữa đối với ngành này. Cùng với những đánh giá từ bên ngoài đó thì bản thân
chúng ta cũng nhận thấy những mặt hạn chế của mình trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Có một điều mà có lẽ nhiều người vẫn lầm tưởng khi cho rằng tăng trưởng
kinh tế luôn tỷ lệ thuận với tăng trưởng xuất khẩu, song thực tế ở Việt Nam đã cho thấy
hiện nay sự đóng góp của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế là chưa tương xứng.
Toàn bộ bức tranh về xuất khẩu của Việt Nam nói chung và với riêng ngành cà phê nói
riêng đã chưa thể hiện được hiệu quả hoạt động của mình một cách tương xứng với
tiềm năng của mình. Hơn nữa, mặc dù Việt Nam được đánh giá cao là đứng thứ hai
trên thế giới về hoạt động xuất khẩu sản phẩm cà phê nhưng vị thế này của Việt Nam
hiện nay không phải đã là một vị thế vững vàng vì khoảng cách của ta với Braxin
(nước đứng đầu) thì còn quá xa mà với các nước còn lại thì cũng không phải là một
khoảng cách an toàn. Từ hai luận điểm trên kết hợp với hoàn cảnh đất nước hội nhập
kinh tế quốc tế như hiện nay, ngày càng có nhiều khó khăn, ngày càng có nhiều sự
cạnh tranh khốc liệt thì việc tăng cường sức mạnh của ngành cà phê Việt Nam là một
việc làm hết sức cần thiết và cần nhanh chóng thực hiện thực hiện. Chính vì vậy mà em
đã chọn đề tài: “Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền
vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu.
47 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2046 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê
Việt Nam tăng trưởng bền vững và đạt
hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Lời nói đầu
Ngày nay, khi mà nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới đang trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế có lẽ vấn đề nóng hổi nhất trên mọi phương tiện thông tin
đại chúng đó là chứng khoán. Bao giờ cũng vậy người ta luôn dồn mọi sự quan tâm
đến những cái mới mà ít ai để ý thấy rằng những thông tin về thị trường xuất nhập
khẩu mới là bản tin thường trực nhất trên các phương tiện thông tin ấy. Điều đó phần
nào cho thấy được tầm quan trọng vô cùng của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền
kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Song hành với sự ra đời và
lớn mạnh của những nền kinh tế theo cơ chế thị trường là từng ấy năm phát triển của
hoạt động ngoại thương mà chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các
quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu được của một quốc gia, nó
góp một phần quan trọng trong GDP của một nước. Ở Việt Nam, hoạt động xuất khẩu
các sản phẩm nông sản đã đem lại nguồn thu nhập rất lớn phục vụ cho việc xây dựng
và phát triển đất nước. Trong đó không thể không nhắc tới những sản phẩm nổi tiếng
đã đem lại vị thế cho Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản như gạo, cà
phê, tiêu, điều.... đặc biệt là sản phẩm cà phê, là hàng nông sản xuất khẩu có giá trị
nhất của Việt Nam. Chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn mà ngành cà phê
đã mang lại cho đất nước thông qua họat động xuất khẩu, nhưng trong một vài niên vụ
gần đây, sản phẩm cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã bị những đánh giá không tốt từ
phía các đối tác nước ngoài, đây là một tín hiệu cho thấy Việt Nam cần có sự quan tâm
hơn nữa đối với ngành này. Cùng với những đánh giá từ bên ngoài đó thì bản thân
chúng ta cũng nhận thấy những mặt hạn chế của mình trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Có một điều mà có lẽ nhiều người vẫn lầm tưởng khi cho rằng tăng trưởng
kinh tế luôn tỷ lệ thuận với tăng trưởng xuất khẩu, song thực tế ở Việt Nam đã cho thấy
hiện nay sự đóng góp của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế là chưa tương xứng.
Toàn bộ bức tranh về xuất khẩu của Việt Nam nói chung và với riêng ngành cà phê nói
riêng đã chưa thể hiện được hiệu quả hoạt động của mình một cách tương xứng với
tiềm năng của mình. Hơn nữa, mặc dù Việt Nam được đánh giá cao là đứng thứ hai
trên thế giới về hoạt động xuất khẩu sản phẩm cà phê nhưng vị thế này của Việt Nam
hiện nay không phải đã là một vị thế vững vàng vì khoảng cách của ta với Braxin
(nước đứng đầu) thì còn quá xa mà với các nước còn lại thì cũng không phải là một
khoảng cách an toàn. Từ hai luận điểm trên kết hợp với hoàn cảnh đất nước hội nhập
kinh tế quốc tế như hiện nay, ngày càng có nhiều khó khăn, ngày càng có nhiều sự
cạnh tranh khốc liệt thì việc tăng cường sức mạnh của ngành cà phê Việt Nam là một
việc làm hết sức cần thiết và cần nhanh chóng thực hiện thực hiện. Chính vì vậy mà em
đã chọn đề tài: “Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền
vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu.
Đề án nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu sản phẩm cà phê của Việt Nam mà cụ
thể là chỉ ra những mặt mạnh và mặt yếu của hoạt động này, cùng với việc xem xét
những khó khăn mà ngành có thể gặp phải trong điều kiện hội nhập để đưa ra những
giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy xuất khẩu diễn ra hiệu quả hơn. Kết cấu của đề án
bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm gần đây.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê tăng trưởng bền vững và
đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa trong nền
kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Trước tiên để hiểu về hoạt động xuất khẩu hàng hóa chúng ta cần hiểu thế nào là
“thương mại quốc tế” bởi xuất khẩu hàng hóa là một phần quan trọng trong hoạt động
thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh
tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường vượt ra ngoài phạm vi
điạ lý của một quốc gia) thông qua họat động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Hoạt
động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày
nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ của một
quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao
gồm:
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu hình: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng... Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng
chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết
bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác...) Đây là bộ phận có tỷ
trọng ngày gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học – công nghệ và
việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công: Đây là họat động
cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế do sự khác bịêt về
điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Khi một nền kinh tế của một quốc gia ngày
càng phát triển thì sự chuyển hướng sẽ thay đổi từ việc gia công thuê cho nước ngoài
thành thuê nước ngoài gia công cho mình nhiều hơn.
Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Tái xuất khẩu là hoạt động một quốc gia nhập
khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó tiến hành xuất khẩu sang nước thứ ba.
Còn chuyển khẩu thì không có hàng vi mua mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như
vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản..
Xuất khẩu tại chỗ: Hàng hóa có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng
nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa
và dịch vụ cho du khách nước ngoài đang trong nước mình...
Như vậy rõ ràng ta thấy sự đóng góp của họat động xuất khẩu hàng hóa trong
thương mại quốc tế là rất lớn, có thể nói đây là hoạt động chủ đạo của thương mại quốc
tế. Hoạt động xuất khẩu là họat động bán hàng hóa, dịch vụ của một quốc gia này cho
một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu về ngoại tệ.
Về hình thức ta có thể thấy hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong
nước đều là hoạt động trao đổi hàng hóa (bán hàng). Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu có
phạm vi rộng hơn rất nhiều và hơn nữa nó làm tăng thu nhập quốc dân. Vì vậy có thể
nói, một quốc gia muốn giàu có thì cần phải tích cực đẩy mạnh họat động xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ nói riêng và đẩy mạnh các quan hệ quốc tế nói chung.
1.1.1.2. Đặc điểm của họat động xuất khẩu hàng hóa.
Dựa vào khái niệm của hoạt động xuất khẩu, ta có thể rút ra những đặc điểm của
họat động này như sau:
Thứ nhất, về người tiêu dùng, khách hàng trong họat động xuất khẩu là các cá
nhân, tổ chức, hay các quốc gia nước ngoài. Do đó quốc gia xuất khẩu muốn hoạt động
này được đẩy mạnh và thuận lợi thì cần phải tìm hiểu sâu về thị trường mà mình hướng
tới, về nhu cầu, thị hiếu, về những rào cản mà thị trường đó đặt ra. Cần phải có những
mặt hàng phù hợp để có thể giữ được mối quan hệ lâu dài.
Thứ hai, thị trường trong trong xuất khẩu rộng lớn và phức tạp hơn nhiều, nó
chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy trước khi lựa chọn một thị trường để xuất khẩu hàng
hóa cần phải có tính chiến lược, phải xét đến tính kinh tế khi trong hoạt động xuất khẩu
này, bởi không phải cứ xuất khẩu là luôn mang lại lợi nhuận cho người xuất, và thực tế
trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bài học về vấn đề này.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất nhập khẩu thường là mua bán
qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động này đều phức tạp và chứa đựng
nhiều rủi ro cho cả bên mua và bên bán như: thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp
đồng.... Do đó cần phải có trình độ về nghiệp vụ và sự chính xác trong các bước thực
hiện hoạt động này.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là một hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho bên
xuất khẩu nói riêng và cả toàn thế giới nói chung nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
Để họat động này được đẩy mạnh thì cấn có sự hợp tác của tất cả các bên.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Trong thời đại mà hầu như tất cả nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều
vận hành theo cơ chế thị trường thị hoạt động xuất khẩu càng đóng một vai trò quan
trọng và không thể thiếu được đối với nền kinh tế của mỗi nước. Hoạt động xuất khẩu
của mỗi quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị của quốc gia đó mà chủ yếu là các
doanh nghiệp ngoại thương. Chính vì vậy mà họat động này không những đem lại lợi
ích kinh tế cho cả nền kinh tế quốc dân mà còn đem lại lợi ích trực tiếp cho các doanh
nghiệp xuất khẩu đó.
Nói về vai trò của họat động xuất khẩu chúng ta xem xét trên 2 góc độ: đối với
toàn bộ nền kinh tế và với bản thân các doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như đã trình bày ở trên, chúng ta đều thấy xuất khẩu là một phần tất yếu trong
các họat động của một nền kinh tế thị trường. Vì vậy đối với nền kinh tế quốc dân thì
xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước.
Các quốc gia dù là phát triển hay kém phát triển thì đều có nhu cầu nhập khẩu
những hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia mình không có. Để nhập khẩu thì tất yếu phải
cần đến tiền, đặc biệt là ngoại tệ, song mỗi quốc gia không thể tự ý in tiền ra để nhập
khẩu được mà cần phải có họat động xuất khẩu để thu ngoại tệ từ ngoài vào. Vì thế mà
hoạt động xuất khẩu có vai trò tạo nguồn vốn cho nhập khẩu. Hơn nữa với các quốc gia
có khả năng xuất khẩu mạnh thì nguồn ngoại tệ thu được vào này còn là vốn để đầu tư
phục vụ cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, các quốc gia buộc phải thay đổi cơ cấu
ngành và các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp để tăng cường năng suất trong
họat động sản xuất hàng hóa xuất khẩu của mình, vì thế làm cho nền kinh tế ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn, hoạt động sản xuất chuyên môn hơn. Xu hướng chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế của các quốc gia hiện nay đã, đang và sẽ chuyển từ sản xuất nông
nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt ngành công nghiệp thì ngày càng
hướng tới sản xuất hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao.
Khi nhìn nhận một cách đúng đắn, coi thị trường là mục tiêu sản xuất và xuất khẩu sẽ
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Phân
tích kỹ về tác động của quan điểm này ta thấy như sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển, vì khi coi thị
trường là mục tiêu tức là cần mở rộng thị trường càng lớn càng tốt, khi đó tất cả các
ngành sẽ có cơ hội phát triển như nhau.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo lợi thế nhờ qui mô.
Xuất khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động xuất khẩu
cho phép mỗi quốc gia có thể tiêu dùng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất của
quốc gia đó.
Xuất khẩu giúp tạo vốn và thu hút khoa học công nghệ từ các nước phát triển
nhằm hiện đại hóa nền kinh tế trong nước.
Xuất khẩu còn thúc đẩy việc chuyên môn hóa trong họat động sản xuất để tăng
năng suất lao động. Trong một quốc gia mỗi cơ sở không nhất thiết phải sản xuất hoàn
thiện một sản phẩm mà có thể chỉ chuyên sản xuất một phần nào đó của sản phẩm,
song hiệu quả công việc của toàn quốc gia vẫn cao hơn. Tương tự như vậy mỗi quốc
gia không nhất thiết phải sản xuất một sản phẩm hoàn thiện mà xu hướng trên thế giới
hiện nay là người ta tiến hành xuất khẩu linh kiện từ quốc gia này sang quốc gia khác
để lắp ráp một sản phẩm hoàn thiện. Cách làm này giúp mỗi quốc gia phát huy được tối
đa khả năng sản xuất của mình, đồng thời tránh lãng phí tài nguyên mà vẫn đem lại lợi
ích chung cho toàn xã hội cao hơn phương thức sản xuất truyền thống.
Thứ ba, xuất khẩu giúp giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động này thể hiện rõ nhất ở các quốc gia có nền kinh tế đang và còn kém phát
triển. Do điều kiện khoa học công nghệ còn chưa cao, để tăng năng suất trong sản xuất
phục vụ cho xuất khẩu các doanh nghiệp đều phải cần tuyển rất nhiều lao động. Vì vậy
họat động này đã góp phần giải quyết một phần rất lớn công ăn việc làm cho người
dân, đồng thời còn tạo thu nhập tương đối ổn định. Mặt khác xuất khẩu đem lại ngoại
tệ để phục vụ cho nhập khẩu cho nên chủng loại hàng hóa cũng ngày càng tăng đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng của người dân trong nước.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế
đối ngoại. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các hoạt động ngoại thương khác có cơ hội
phát triển như tín dụng quốc tế, bảo hiểm quốc tế, du lịch quốc tế....Ngược lại, sự phát
triển của các hoạt động này là nền tảng đảm bảo cho họat động xuất khẩu được diễn ra
ngày càng thuận lợi và nhanh gọn hơn.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp.
Trực tiếp thực hiện họat động xuất khẩu, vì thế nên xuất khẩu có vai trò to lớn
đối với các doanh nghiệp ngoại thương.
Trước hết, xuất khẩu đem lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp này để lại
tiếp tục duy trì họat động của mình.
Thứ hai, nhờ xuất khẩu các doanh nghiệp có điều kiện tham gia vào các cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Điều này
buộc các doanh nghiệp phải có chiến lược sản xuất và cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị
trường và phải hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh của mình.
Thứ ba, quá trình sản xuất hàng hóa xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được
nhiều lao động giá rẻ, vừa tăng được qui mô sản xuất lại vừa giúp người lao động có
thu nhập.
Thứ tư, xuất khẩu lao đông khuyến khích phát triển mạng lưới kinh doanh của
doanh nghiệp, chẳng hạn như họat động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động
sản xuất, marketing, phân phối và mở rộng kinh doanh, giúp các doanh nghiệp mở rộng
được thị trường và các mối quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước
trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Như vậy ta thấy hoạt động xuất khẩu rõ ràng đóng một vai trò quan trọng và tác
động tích cực đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
1.2.1. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái tác động tới nhiều mặt khác nhau của nền kinh tế, qua trọng nhất
là hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, tín dụng quốc tế.
Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới hoạt động ngoại thương thông qua kênh
giá cả. Thông qua tỷ giá hối đoái ta có thể tính giá xuất nhập khẩu của một loại hàng
hóa của một nước theo tiền tệ của một nước khác. Do vậy tỷ giá thay đổi kéo theo sự
thay đổi của giá cả hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái tăng,
đồng nội tệ mất giá thì sẽ có lợi cho xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó.
Chính vì vậy một số nước để làm tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu đã dùng cách
phá giá đồng tiền. Song đây không phải là một cách làm có thể thực hiện trong dài hạn
và không nên lạm dụng bởi nó có thể ảnh hưởng xấu đến các quan hệ kinh tế khác nữa.
1.2.2. Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Chính sách thuế
Chính sách thuế của nhà nước tác động tới cả cung và cầu hàng hóa thông qua
tác động vào giá và các yếu tố đầu vào như thuế nhập khẩu phân bón, thuế nông
nghiệp, thuế nhập khẩu giống....và các khoản chi phí khác như phí thủy lợi.....Các
khoản phí và thuế này tăng làm tăng giá thành và làm giảm cung cà phê. Ngược lại
việc giảm các loại thuế này có tác động kích thích làm tăng cung về mặt hàng cà phê,
qua đó các chính sách này tác động tới cung cà phê cho thị trường xuất khẩu.
Chính sách tín dụng.
Các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu thường có giá trị lớn và chịu các chi phí lớn
khác như: chi phí vận chuyển, chi phí kiểm định, chi phí thuê kho ngoại quan, thuế
nhập khẩu, chi phí cho thanh toán...Do vậy các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu thường cần một lượng vốn lớn. Trên thực tế hầu hết các doanh nghiệp
xuất khẩu đặc biệt là các nước đang phát triển thường gặp khó khăn về mặt tài chính.
Vì vậy các chính sách ưu đãi tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động
tốt hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu và làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hóa.
Chính sách đầu tư.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ chế biến...sẽ có tác dụng phát huy
tối đa hiệu quả kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông sản. Để có hiệu
quả kinh tế cao thì nên xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tức đã
qua chế biến.
Ngoài ra còn có các khoản đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị
trường, hỗ trợ các doanh nghịêp tham gia vào hội chợ, triển lãm quốc tế..., nhăm thúc
đẩy các hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Các yếu tố chính trị.
Mỗi sự kiện chính trị đều có ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế. Sự thay đổi về
chính trị làm thay đổi chính sách kinh tế, chính vì vậy làm tăng mức độ rủi ro cho các
doanh nghiệp. Hơn nữa các đối tác thường quan tâm hơn tới các quốc gia có chính trị
ổn định, điều này tạo cho họ sự tin cậy và có nhưng hợp đồng lâu dài không chỉ trong
xuất nhập khẩu mà còn nhiều hoạt động kinh tế quốc tế khác nữa.
Yếu tố văn hóa – xã hội.
Các yếu tố văn hóa – xã hội như là: tín ngưỡng tôn giáo, thị hiếu tiêu dùng, tục
lệ...có ảnh hưởng khá lớn tới các hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và hoạt động
xuất nhập khẩu nói riêng. Khi xuất khẩu hàng hóa sang bất lý nước nào đều cần tìm
hiểu rõ về vẫn đề này để có những thiết kế hay chất cung cấp những mặt hàng có chất
lượng phù hợp. Ví dụ người dân châu Âu rất khắt khe về nhãn mác của hàng hóa, họ
không bận tâm nhiều đến vấn đề giá cả mà là độ an toàn của hàng hóa sử dụng, hay
người Mỹ thì dễ tính hơn nhưng những rào cản phi thuế quan của Mỹ lại là vấn đề khá
khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hay tập quán thương mại ở Nam Phi các
doanh nghiệp thường có thói quen nhìn thấy hàng mới ngã giá, số lượng mua mỗi lần
thường từ 500 đến 1000 tấn và thanh toán bằng đồng nội tệ... Đặc biệt yếu tố này tác
động rất lớn đến quá trình đàm phán quốc tế.
Hệ thống pháp luật.
Hành lang pháp lý của một quốc gia càng thông thoáng, minh bạch và cụ thể,
phù hợp với thông lệ quốc tế thì càng tạo điều kiện thuận lợi và giảm thiểu chi phí
trung gian trong xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Hiện nay việc gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) khiến các quốc gia phải từng bước thay đổi hệ thống pháp
luật trong kinh tế của mình sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế đã làm cho thương
mại quốc tế ngày càng thuận lợi hơn.
Phương thức giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Giao thông vận tải và thông tin liên lạc là một phần không thể thiếu trong xuất
nhập khẩu, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí cho hoạt động này và sự đảm bảo chất
lượng cho hàng hóa. Giao thông vận tải đa dạng, nhanh, giá rẻ là yếu tố cần thiết nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin càng phát triển,
hoàn thiện và chính xác thì càng t