Đề tài Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế giá trị gia tăng

Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 (tháng 4/1997) thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Đây là Luật thuế mới, lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam với đối tượng điều chỉnh rộng và tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Thuế GTGT là một loại thuế hiện đại đánh trên tiêu dùng và có nhiều ưu điểm so với thuế doanh thu, đặc biệt là tác dụng loại trừ việc đánh thuế trùng qua các giai đoạn của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Cùng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức, việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho Luật thuế doanh thu là một trong những nội dung cơ bản của cái cải thuế bước 2 với mục tiêu tạo môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, bình đẳng, thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Qua hơn 7 năm thực hiện tại Việt Nam, đến nay Luật Thuế GTGT đã dần đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội đất nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp dụng thuế GTGT trên thực tế vẫn là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp luật dẫn đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về thuế GTGT ở Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng trong thời gian tới. Bài viết dưới đây tìm hiểu về “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT”.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2208 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế giá trị gia tăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 (tháng 4/1997) thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Đây là Luật thuế mới, lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam với đối tượng điều chỉnh rộng và tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Thuế GTGT là một loại thuế hiện đại đánh trên tiêu dùng và có nhiều ưu điểm so với thuế doanh thu, đặc biệt là tác dụng loại trừ việc đánh thuế trùng qua các giai đoạn của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Cùng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức, việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho Luật thuế doanh thu là một trong những nội dung cơ bản của cái cải thuế bước 2 với mục tiêu tạo môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, bình đẳng, thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Qua hơn 7 năm thực hiện tại Việt Nam, đến nay Luật Thuế GTGT đã dần đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội đất nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp dụng thuế GTGT trên thực tế vẫn là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp luật dẫn đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về thuế GTGT ở Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng trong thời gian tới. Bài viết dưới đây tìm hiểu về “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT”. NỘI DUNG I. Khái quát về thuế giá trị gia tăng 1. Định nghĩa thuế giá trị gia tăng So với nhiều sắc thuế khác, thuế GTGT có lịch sử phát triển không dài nhưng loại thuế này đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ. Với những hình thức phong phúm thuế GTGT là một phần quan trọng của hệ thống tài chính của nhiều nước trên thế giới, nó là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ. Điều 2, Luật thuế GTGT năm 2008 quy định : “Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua bán hàng hóa, nhận dịch vụ. Như vậy, xét về bản chất, thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng thực chất lại là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ. Điều này giúp cho các cơ quan quản lí, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế GTGT cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. 2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng. Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để hưởng thụ kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Chính đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với đời sống kinh tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị gia tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị gia tăng thêm làm căn cứ tính thuế. Thứ ba, nếu dựa trên giá trị mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng hưởng thụ hàng hóa dịch vụ đã được xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tồng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với cá loại thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây. Từ những đặc điểm trên có thể thấy, ưu điểm cơ bản nhất của thuế GTGT là khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh được việc đánh thuế trùng lắp bằng cơ chế khấu trừ thuế đầu vào, khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động xuất khẩu bằng cơ chế hoàn thuế GTGT, đem lại số thu tương đối lớn cho ngân sách nhà nước do phàm vi điều tiết của thuế GTGT rộng, cho phép chống trốn lậu thuế hiệu quả, tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế giữa các đơn vị có liên quan trong cung ứng hàng hóa dịch vụ vì việc khấu trừ thuế được thực hiện trên cơ sở hóa đơn GTGT. 3. Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam được xem xét dưới các bộ phận cụ thể như sau: phạm vi áp dụng thuế GTGT, căn cứ tính thuế GTGT, các quy định về phương pháp tính thuế GTGT, các quy định về ưu đã, miễn giảm thuế GTGT và cuối cùng là các quy định về kê khai, nộp thuế. 3.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT Theo quy định tại Điều 3, Luật thuế GTGT thì đối tượng nộp thuế GTGT là các chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế. Việc xác định chủ thể nộp thuế GTGT là nhằm giới hạn những đối tượng thuộc diện điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Điều này cũng có nghĩa những đối tượng không đáp ứng được đầy đủ điều kiện là đối tượng nộp thuế GTGT thì đương nhiên nằm ngoài sự điều chỉnh của quan hệ pháp luật này. Điều kiện thứ nhất, đối tượng nộp thuế GTGT phải có hành vi kinh doanh. Các chủ thể này phải có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT, ngoài ra các chủ thể kinh doanh này phải có các hành vi kinh doanh được pháp luật công nhận. Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ được xác định là đối tượng chịu thuế GTGT bao gồm: - Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, tiêu dùng trong nước không phân biệt hình thức tiêu dùng. - Hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. Việc đánh thuế GTGT đối với hoạt động nhập khẩu tạo ra sự bình đẳng giữa hàng hóa dịch vụ được tạo ra trong nước và hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, mặc dù trong những chừng mực nhất định có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu. Điều kiện thứ hai để xác định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa dịch vụ này phải có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam. Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam quy định phần giá trị gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ cơ bản như sau: - Đối với hàng hóa dịch vụ tạo ra trong nước, phần giá trị gia tăng là chênh lệch giữa giá trị bán ra với giá trị mua vào tương ứng của lượng hàng hóa dịch vụ đã cung cấp. - Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, phần giá trị tăng thêm là toàn bộ giá trị nhập khẩu của hàng hóa. 3.2. Căn cứ tính thuế * Thứ nhất, về giá tính thuế GTGT Được xác định theo hai cách. Thứ nhất, giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT; thứ hai, giá tính thuế GTGT là giá chưa bao gồm thuế GTGT, cách tính này được áp dụng hầu hết ở các nước và cũng là sự lựa chọn của Việt Nam khi xác định giá tính thuế GTGT. Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các loại thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế GTGT. Đối với hoạt động sản xuất hàng hóa ở dưới dạng đặc thù như cho thuê tài sản, gia công hàng hóa, xây dựng....tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy định chi tiết về giá tính thuế GTGT. * Thứ hai, về thuế suất Đối với việc quy định thuế suất thuế GTGT phải đáp ứng được những mục tiêu sau: - Mức thuế suất được ban hành phải đảm bảo tỷ lệ động viên, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. - Vì thuế GTGT là thuế tiêu dùng nên thuế suất phải đảm bảo khả năng định hướng tiêu dùng trong dân cư. - Thông qua thuế suất Nhà nước thực hiện một số chính sách khuyến khích, thay đổi cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế. 3.3. Phương pháp tính thuế GTGT * Phương pháp khấu trừ thuế “Khấu trừ thuế là một trong những nội dung đặc trưng của phương pháp tính thuế GTGT” . Tính thuế theo phương pháp này là số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Trong đó: Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nôp thuế đã xác định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ. Phần thuế này được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tại Khoản 1 Điều 9 Luật Thuế GTGT quy định thuế đầu ra được tính bằng giá tính thuế hàng hóa, dịch vụ đầu ra nhân với thuế suất thuế GTGT. - Giá tính thuế là gái bán chưa có thuế GTGT theo quy định của pháp luật - Thuế suất được quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh, từng chủng loại hàng hóa, dịch vụ. - Thuế GTGT ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của chủ thể nộp thuế. Trường hợp chứng từ không phản ánh số thuế GTGT hoặc chỉ ghi nhận giá thanh toán hàng hóa dịch vụ cũng được điều chỉnh cụ thể trong Luật. Để áp dụng được phương pháp khấu trừ thuế, cần phải có những điều kiện luật định như sau: - Chủ thể nôp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành. - Đăng ký thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định. - Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. * Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm Phương pháp trừ trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó “Số thuế phải nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT” Để có được phần “giá trị tăng thêm”, pháp luật quy định GTGT “bằng giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ bán ra, trừ đi giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ mua vào tương ứng”. Như vậy, nếu phương pháp khấu trừ thuế xác định trực tiếp theo hiệu số thuế thì phương pháp tính trực tiếp xác định theo hiệu số kết quả kinh doanh của chủ thể nộp thuế. Thuế suất thuế GTGT được áp dụng phù hợp với ngành nghề kinh doanh, hàng hóa dịch vụ mà chủ thể nộp thuế cung cấp. 3.4. Quy định về đăng ký, kê khai nôp thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế GTGT Về tổ chức đăng ký thuế, pháp luật thuế GTGT quy định các chủ thể đăng ký thuế được cơ quan quản lý thuế chấp nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế và thông báo mã số thuế cho chủ thể nộp thuế. Mã số thuế được cấp duy nhất cho một chủ thể nộp thuế và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế. Về quản lý giám sát quá trình nộp thuế: việc quản lý và giám sát quá trình kê khai thu nộp thuế đối với thuế GTGT phân chia làm hai loại do đặc thù của đối tượng chịu thuế. Đó là việc quản lý kê khai, nộp thuế với hoạt động kinh doanh thông thường và hoạt động quản lý kê khai, thu nộp thuế đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Bên cạnh việc quản lý thu nộp và kê khai thuế GTGT, chứng từ hóa đơn cũng là một nội dung quan trọng của việc quản lý thuế GTGT. Theo Luật thuế GTGT, chứng từ hóa đơn chính là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với nhà nước. Về hoàn thuế GTGT: hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế. Theo quy định của pháp luật, hoàn thuế áp dụng trong các trường hợp sau: - Trường hợp thứ nhất, đối với chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh thông thường, các đối tượng được hoàn thuế GTGT chỉ có thể là đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Nếu các đối tượng này có “3 tháng liên tục trở lên có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết”, thì được trả lại phần thuế đã nộp vượt quá. - Trường hợp thứ hai, hoạt động xuất khẩu hàng hóa, do hưởng thuế suất 0%, cơ sở có hàng suất khẩu có thể được hoàn thuế theo tháng khi thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ hết trên 200 triệu đồng. - Trường hợp thứ ba, đối với việc đầu tư dự án có giá trị lớn, thường phát sinh số thuế đầu vào lớn, nếu đó là các dự án của chủ thể đã đăng ký thuế, chưa thực sự kinh doanh, thời gian đầu tư trên 1 năm, được xét hoàn thuế theo từng năm; nếu số thuế đầu vào tương ứng trên 200 triệu, được xét hoàn thuế quý. - Trường hợp thứ tư, hoàn thuế GTGT do thực hiện chính sách ưu đãi. Đối với sự án sử dụng nguồn vốn ODA, hàng hóa mua bằng nguồn viện trợ nhân đạo, pháp luật cho phép chủ dự án hoặc tổ chức cá nhân viện trợ nhân đạo được hoàn lại số thuế GTGT đã trả tương ứng với hàng hóa, dịch vụ đã được cung cấp. - Trường hợp thứ năm, quyết toán thuế khi chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp. Việc hoàn thuế GTGT chỉ có thể thực hiện khi đối tượng nộp thuế nằm một trong những trường hợp nêu trên và có hồ sơ hoàn thuế hợp lệ. Ngoài các nội dung trên, Luật thuế GTGT còn đề cập đến công tác quyết toán, kiểm toán thuế GTGT. II. Thực tiễn áp dụng pháp luật Thuế GTGT Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam tuy ra đời muộn và còn khá mới mẻ so với các loại thuế khác, nhưng về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả cấu trúc bên trong lẫn biểu hiện bên ngoài. Nhìn chung, kể từ ngày được ban hành và có hiệu lực thì pháp luật thuế GTGT đã đạt được một số thành tựu đáng kể, đã có những ưu điểm vượt trội tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng luật thuế này. Tuy vậy trong các quy định cụ thể của pháp luật thuế GTGT thì vẫn còn những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện hơn. 1. Ưu điểm Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT đã thể hiện thái độ của nhà nước đối với tính trung lập của thuế. Điều này được thể hiện ở chỗ những quy định của pháp luật thuế GTGT đã tạo ra sự công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế với nhau. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế đã được phân chia một cách hợp lý và chịu mức thuế suất như nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ có cùng mục đích sử dụng. Pháp luật thuế GTGT đã giải quyết việc cân bằng mức thuế suất của các loại hàng hóa, dịch vụ tạo ra sự bình ổn trong hoạt động kinh tế xã hội, thể hiện được tính trung lập của thuế GTGT. Thứ hai, luật thuế GTGT đã đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công bằng và hiệu quả pháp luật của hệ thống pháp luật. Các quy định của pháp luật thuế GTGT đã phần nào thể hiện rõ nét nguyên tắc công bằng, mà biểu hiện cụ thể thông qua những quy định mang tính phổ biến về đối tượng nộp thuế, cơ sở tính thuế. Tất cả những chủ thể có đủ điều kiện ghi nhận theo luật thuế GTGT đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước cho dù họ là ai. Mặt khác pháp luật thuế cũng có nhiều quy định tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng cuối cùng như quy định những trường hợp hoàn thuế, quy định giá tính thuế có nhiều ưu điểm nổi trội... Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế GTGT đã tạo ra cơ sở pháp lý hình thành nguồn thu ổn định chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí. Việc triển khai thực hiện luật thuế GTGT bảo đảm động viên số thu cho ngân sách nhà nước không giảm hơn so với thuế doanh thu, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu ngân sách nhà nước, đồng thời không gây biến động lớn về giá. Thứ tư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT ở các công trình xây dựng cơ bản được hoạch toán riêng không tính vào giá thành công trình, không phải khấu hao tài sản sau này được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Mặt khác, khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế GTGT. Thứ năm, pháp luật thuế GTGT hiện hành mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế. Luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích việc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. Đặc biệt, luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xất kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, thủ công mỹ nghệ. Đặc biệt luật thuế GTGT đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy mua bán hàng hóa có hóa đơn chứng từ ở các doanh nghiệp. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hóa đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cho cơ quan chức năng của nhà nước và cơ quan thuế từng bước nắm được tốt hơn thình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp. 2. Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới: Thứ nhất, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Luật thuế GTGT hiện hành quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn phù hợp do không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung cụ thể hoá các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ hai, về thuế suất thuế GTGT. Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngoài thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ thuế suất 20%, chỉ còn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách nhà nước . Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ví dụ: sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Luận văn liên quan