Đề tài Thực tiễn vấn đề đạo đức kinh doanh

Những vấn đề được đưa ra ở trên giúp chúng ta hiểu được rõ hơn về đạo đức kinh doanh .có thể nói đạo đức kinh doanh là cần thiết , đạo đức kinh doanh là một vấn đề nhức nhối và phức tạp cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện.ngoài những biện pháp tuyên truyền giáo dục cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức hiểu về đạo đức kinh doanh thì cũng cần phải có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình.Chúng ta cần ý thức rằng không có ranh giới cố định nào cho đạo đức , rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ luật pháp rất nhiều . Xác lập được đạo kinh doanh sẽ là bước đầu tiên để chúng ta xây dựng một văn hoá kinh doanh. cái khó của giới doanh nghiệp là tìm ra giải pháp để có thể cân bằng giữa việc tối đa hoá lợi nhuận và việc bảo đảm các nghĩa vụ về đạo đức, đóng góp cho xã hội, tuân thủ các quy định về môi trường xã hội, tuân thủ các chuẩn mực về bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc cho nhân viên hay thực hiện các biện pháp phòng tránh những biểu hiện lừa dối khách hàng. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền KTQD. Các nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội. Tiến hành kinh doanh theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối quan hệ giúp tăng cường năng suất và đổi mới. Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm việc trong một công ty để họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh giá cao về tính liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh. Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng và nhân viên, sự tận tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư, tài sản và tăng doanh thu của doanh nghiệp. Đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm trong khi lập kế hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất, tài chính, đào tạo nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng

doc53 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4506 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn vấn đề đạo đức kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều công ty,doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh để định hướng cho các hành vi của mình và đảm bảo rằng những họat động của họ phù hợp với những tiêu chuẩn trong nước cũng như quốc tế.Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thiết lập một hệ thống các tiêu chuẩn đạo đức toàn cầu nói chung. Khi áp dụng cho kinh doanh trong nước hay trong kinh doanh toàn cầu, các giá trị chung như : trung thực, liêm chính, công bằng, và vô tư … góp phần tạo nên một hệ thống đạo đức. Khái niệm đạo đức thương trường đã có nền móng tự hàng nghìn năm trước. Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh (hộ gia đình, công ty, xí nghiệp, tập đoàn) như : Ban giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị, công nhân viên chức. Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong mỗi tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ. Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm lời bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc lột người lao động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ quan chức năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi công đoàn và chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường được doanh nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua nhiều phương tiện hiện đại  mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết thì cũng đã muộn vì đã lỡ mất tiền, không thể đòi lại được. Nếu như chuyện lừa dối trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục vụ tiêu dùng đáng bị lên án thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng là điều không thể chấp nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về quản lý, trong đó có chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời của đạo đức kinh doanh. Lẽ đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác làm văn hóa doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho mình văn hóa trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh hẳn sẽ được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều người vẫn tưởng. Bài tiểu luận này chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề nóng hổi hiện nay là đạo đức kinh doanh của các các DN Việt Nam , cũng như các công ty tập đoàn đa quốc gia .Liệu đạo đức kinh doanh có cần thiết ? tại sao phải xây dựng triết lý kinh doanh ,đạo đức kinh doanh ,văn hóa kinh doanh ? Phần I CÁC KHÁI NIỆM , ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Khái niệm đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động kinh doanh. Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp . Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức không hoàn toàn giống các hoạt động khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha mẹ con cái thì đó lại là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh. 1.Tính trung thực. Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người tiêu dùng: Không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư" 2.Tôn trọng con người. Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác. Đối với khách hàng,tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ .Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội. Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh  là chủ thể hoạt động kinh doanh. Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh. Khách hàng của doanh nhân: Khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do vậy cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách hàng lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân, làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có" chưa hẳn đúng!! 3.Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh. Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng, khách hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công. Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục Từ "đạo đức" có gốc từ latinh Moralital (luân lý) - bản thân mình cư xử và gốc từ Hy lạp Ethigos (đạo lý) - người khác muốn ta hành xử và ngược lại ta muốn họ. ở Trung Quốc, "đạo" có nghĩa là đường đi, đường sống của con người, "đức" có nghĩa là đức tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý. Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan hệ với người khác, với xã hội. Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự nhiên của cái đúng -cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng - cái sai, triết lý về cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi của các thành viên cùng một nghề nghiệp” (từ điển Điện tử American Heritage Dictionary). Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có đặc điểm: Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương. Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ thể. Chức năng cơ bản của đạo đức là đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục. Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây dựng lối sống, lý tưởng mỗi người. Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: Độ lượng, khoan dung, chính trực khiêm tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội, bất tín, ác… Đạo đức khác với pháp luật ở chỗ: Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế mà mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản pháp quy. Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước; còn đạo đức bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật . 4.Lắng nghe khách hàng. Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanh nghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn. Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách phát hiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến. Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắng nghe khách hàng. Hãy tổ chức các cuộc họp với nhân viên bàn về các khách hàng quan trọng của công ty và họ sẽ đóng góp nhiều ý kiến để có thêm nhiều cơ hội cải tiến. 5.Chăm sóc khách hàng. Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực sự đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàng của doanh nghiệp thực sự tiện lợi. Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh thực sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất để tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh tranh về sản phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng. Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá nhân nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người khác trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng nội bộ của doanh nghiệp. Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất và nhất quán trong mọi phòng ban. Sau đây là sáu bí quyết giúp chăm sóc khách hàng tốt nhất: Sự thân thiện và nồng ấm trong giao tiếp với khách hàng. Khách hàng muốn được cảm thấy mình thực sự quan trọng. Khách hàng muốn được công ty lắng nghe những gì họ nói. Đôi khi, việc biết tên của khách hàng cũng đem lại lợi thế cho doanh nghiệp. Năng động, linh hoạt. 6.Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu. Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách hàng quan tâm đến. 7.Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều. 8.Tin tưởng của khách hàng về chất lượng. Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất lượng của nhã hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng. Tin tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan. 9.Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu. Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến Coca, trông thấy cá cơm người ta liên tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc mở rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn hiệu Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính then chốt của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh. II- Đạo đức cần cho thương hiệu Không phải quá ngạc nhiên, tại hầu hết các thị trường phát triển, một vụ vi phạm về các chuẩn đạo đức kinh doanh bị phạt rất nặng. Tuy nhiên, "án phạt" nặng nhất cho những trường hợp đó chính là việc người tiêu dùng tẩy chay dùng sản phẩm. Còn nhớ, năm 2006, khi Trung tâm Khoa học và Môi trường Ấn Độ (CSE) ra thông báo rằng: các sản phẩm của Coca-cola và Pepsi chứa nhiều độc tố quá mức cho phép, các nhà quản trị của hai thương hiệu này đã phản ứng quá mức. Họ đâm đơn lên kiện cáo buộc của CSE. Và kết quả các sản phẩm của họ bị phản đối ở thị trường này. Ắt hẳn, rất nhiều người hiểu, cáo buộc của CSE là thái quá. Và xét về góc độ lý tính, phản ứng của nhà quản trị hai thương hiệu này là có cơ sở. Nhưng, vấn đề là người tiêu dùng, có chấp nhận sự phản ứng đó ở mức nào. Lấy ví dụ này để thấy rằng, rõ ràng, ở những thị trường phát triển, người tiêu dùng được định danh đúng nghĩa là “thượng đế”. Và bất kì những gì ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng luôn luôn bị phản đối. Do vậy cách làm ở đây là “thuyết phục" với thái độ mềm mỏng chứ không phải là "kiện tụng". Và người tiêu dùng được quyền từ chối, vì tại thị trường của họ đã xác lập những giá trị thực tế, mà ở đó, yếu tố đạo đức quyết định cho sức sống của thương hiệu.( điển hình là trà thảo mộc DR>Thanh Ở Việt Nam, các tập đoàn lớn, cũng có thái độ ứng xử tương tự khi gặp sự cố. Còn nhớ, khi cơn “bão melamine”, quét sang thị trường Việt Nam, vẫn có những tên tuổi lớn gặp sự cố. Đó là trường hợp của Mead Johnson bị nghi ngờ là có nhiễm melamine ở một thị trường khác. Lập tức, họ xác nhận lại mức độ chính xác của thông tin. Và kịp thời đưa thông tin đó đến người tiêu dùng với dạng “thuyết phục”. Bởi vì, hơn ai hết, họ ý thức được sự "nguy hiểm” nếu những điều tiếng này tiếp tục tồn tại. Điều quan trọng là, những giá trị chân thật, khả tín...chính là điều cần thiết để bảo vệ thương hiệu của mình. Và một tên tuổi lớn như Mead Johnson, không thể "chối đây đẩy" những thông tin như thế với khách hàng của mình. Bởi vì, họ hiểu rằng, ngay khi mình "vô can”, những câu chuyện đại loại như vậy sẽ là "thông tin xấu” làm hoen ố hình ảnh và làm hạn chế sức sống của thương hiệu. Vấn đề là tại sao, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam không ý thức hay ý thức không đầy đủ sự tác động của những sự cố này đến thương hiệu của mình? Điều này có lẽ lý giải một phần: những chuẩn giá trị của đạo đức kinh doanh đã không được tôn trọng, và hệ lụy của nó, ắt hẳn không thể hiện ngay nước mắt, mà từ từ và lâu dài. Và điều quan trọng nhất, khi người tiêu dùng, không còn sự tín nhiệm, niềm tin, tất cả những giá trị khác sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa. Tất nhiên, thị trường có những quy luật của riêng nó. Tuy nhiên, cách làm khôn khéo là tác động vào những quy luật đó để nó chuyển động theo chiều hướng tích cực, có lợi cho doanh nghiệp. Giá trị đạo đức trong kinh doanh không phải là điếu gì quá mơ hồ. Nó cần được những nhà quản trị doanh nghiệp xác lập trong từng hành động cụ thể và trải đều trên tất cả những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh. Và khi nào các doanh nghiệp Việt Nam ý thức đầy đủ những điều như vậy, cơ hội để vươn lên vẫn còn rộng mở, ngược lại, tất cả những nỗ lực để xây dựng thương hiệu,vẫn là điều gì đó xa vời và không thực tế Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ? Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề quan trọng nhưng nhiều doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào để đưa vấn đề này vào trong các hoạt động của mình. Dựa trên kinh nghiệm từ nhiều công ty trên thế giới và kết quả các nghiên cứu khoa học, dưới đây là một số gợi ý cho việc cần làm và yếu tố cần có để thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp. Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo. Thực tế cho thấy nhiều hành vi phi đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm gian, làm ẩu, qua mặt đối tác… thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên. “Thượng bất chính hạ tắc loạn” ! Ngược lại, sự quyết tâm tôn trọng các giá trị đạo đức, cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và sự gương mẫu trong việc thực hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người cùng nhau làm ăn chân chính. Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất . Phạm trù đạo đức thường rất rộng và trừu tượng, nhiều khi còn mang tính chủ quan. Do đó, để cụ thể hóa việc thực hiện các vấn đề đạo đức, mỗi doanh nghiệp nên xây dựng và áp dụng một bộ những quy tắc đạo đức thống nhất. Bộ quy tắc này được xem là một cẩm nang hướng dẫn cho nhân viên và là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức trong doanh nghiệp. Nội dung của bộ quy tắc đạo đức nên bao gồm bốn phần chính: 1. Sự ủng hộ và yêu cầu thực hiện đạo đức của lãnh đạo doanh nghiệp . 2. Cam kết và trách nhiệm của doanh nghiệp với nhân viên. 3. Các giá trị đạo đức và trách nhiệm mà nhân viên phải thực hiện đối với đồng nghiệp, lãnh đạo, khách hàng, chính quyền và cộng đồng. 4. Các phương thức thông tin và cách giải quyết các vướng mắc liên quan đến đạo đức. Như vậy, trong bộ quy tắc đạo đức thì trách nhiệm của doanh nghiệp và lãnh đạo được nêu ra trước, sau đó mới đề cập đến trách nhiệm của nhân viên. Trong thực tế, các công ty ở Mỹ và Canada thường có những bộ quy tắc không dài quá hai trang, được trình bày đẹp, sinh động, ngắn gọn và dễ hiểu để phát cho mọi nhân viên. Doanh nghiệp không nên sao chép rập khuôn các quy tắc đạo đức chung chung hoặc thuê công ty tư vấn viết thay, mà nên tổ chức cho tất cả nhân viên cùng đóng góp xây dựng các quy tắc, tự đề ra trách nhiệm và hướng giải quyết khi xảy ra các vấn đề liên quan đến đạo đức. Các quy tắc cũng cần được cập nhật, điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân viên. Khi được đóng góp ý kiến thì các nhân viên sẽ coi bộ quy tắc này là của chính mình nên sẽ tự giác thực hiện nó. Khi đó đạo đức trong kinh doanh không phải là những nội quy cứng nhắc trên giấy mà sẽ trở thành một nét văn hóa sống động trong công ty. Các chương trình Huấn luyện về đạo đức. Xây dựng một bộ quy tắc chỉ là bước đầu đưa đạo đức trở thành nét văn hóa sống động trong công ty. Bộ quy tắc dù đầy đủ và rõ ràng đến đâu cũng không thể bao quát hết tình hình thực tế. Vì thế, việc hiểu và thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp cũng cần được xem như huấn luyện các kỹ năng bán hàng, giao tiếp… Trong hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp sẽ phát sinh rất nhiều tình huống mới làm nhân viên lúng túng không biết phải xử lý thế nào cho đúng về mặt đạo đức, như nhắm mắt cho qua để đạt chỉ tiêu hay nên dừng lại để kiểm tra khi phát hiện sản phẩm bị lỗi, hoặc có nên đuổi việc nhân viên khi vi phạm một lỗi nào đó? Trải qua những tình huống như vậy, doanh nghiệp cần tổ chức các chương trình huấn luyện về đạo đức kinh doanh để giúp nhân viên biết cách xử lý vấn đề cho đúng. Có thể đó là các khóa học tập trung hay ngoài giờ hoặc các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề, hay thi đố vui xử lý tình huống, diễn kịch tuyên truyền, thi viết báo tường hay vẽ tranh cổ động… Nhiều công ty cũng có sáng kiến xây dựng các tình huống mẫu hoặc phát triển các quy tắc đạo đức chung thành những đoạn phim ngắn chiếu cho nhân viên xem. Xây dựng các kênh thông tin(giải pháp) Nhiều công ty như Motorola hay Sundstrand đã thành lập một hội đồng gồm các nhân viên thường trực và chuyên trách về đạo đức. Khi có thắc mắ
Luận văn liên quan