Đề tài Thực trạng áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

Thuế là phạm trù được biết đến từ thời kỳ đầu của lịch sử nhà nước với những biểu hiện khác nhau và phát triển cùng sự phát triển của nhà nước. Trong lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại nhiều loại thuế như thuế thân, thuế hộ, thuế điệu, thuế thổ sản,. Trong các loại thuế hiện nay thì thuế GTGT là thuế có nguồn gốc từ thuế doanh thu và được ban hành đầu tiên tại Pháp năm 1954. Thuế GTGT theo như quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2008 thì “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như vậy, bản chất của thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng mới là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Từ ngữ viết tắt sử dụng trong bài GTGT: giá trị gia tăng BÀI LÀM KHÁI QUÁT CHUNG: Khái niệm thuế GTGT Thuế là phạm trù được biết đến từ thời kỳ đầu của lịch sử nhà nước với những biểu hiện khác nhau và phát triển cùng sự phát triển của nhà nước. Trong lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại nhiều loại thuế như thuế thân, thuế hộ, thuế điệu, thuế thổ sản,.... Trong các loại thuế hiện nay thì thuế GTGT là thuế có nguồn gốc từ thuế doanh thu và được ban hành đầu tiên tại Pháp năm 1954. Thuế GTGT theo như quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2008 thì “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như vậy, bản chất của thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng mới là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ Đặc điểm của thuế GTGT Là một loại thuế độc lập nên thuế GTGT cũng có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt nó với các loại thuế khác như sau: Một là thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất lớn. Đó là mọi đối tượng tồn tại trong xã hội, kể cả cá nhân và tổ chức đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho xã hội. Việc đánh thuế trên phạm vi lãnh thổ với mọi đối tượng thể hiện sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với trường hợp cần khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế việc trả tiền thuế của người tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất. Hai là thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác. Nếu như thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ đánh một lần ở khâu sản xuất hay nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thuế xuất - nhập khẩu chỉ đánh ở khâu xuất hoặc nhập khẩu thì thuế GTGT lại đánh ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa. Ba là, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, nhập khẩu và lưu thông hàng hóa nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Vai trò của thuế GTGT Trước khi ban hành Luật thuế GTGT, ở Việt Nam trong một thời gian dài đã áp dụng thuế Doanh thu. Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với ưu điểm của thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như thuế doanh thu, nếu như không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì khi áp dụng thuế giá trị gia tăng sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì nó tránh được tình trạng thuế đánh chồng lên thuế. Bên cạnh vai trò đối với sản xuất, lưu thông hàng hóa, cũng như các loại thuế khác, thuế GTGT cũng có vai trò to lớn trong quản lý nhà nước về kinh tế: Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ, do đó không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức cũng như quản lý hoạt động thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng( vì thuế suất là 0%) mà còn được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Những thành tựu đạt được Với đặc điểm là đánh thuế rộng khắp và thu ở từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh nên thuế GTGT đóng góp một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Với mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu đồng nghĩa doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào. Đây là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam ra thị trường quốc tế. Mặt khác, thuế GTGT không nằm trong các yếu tố cấu thành giá nên tạo ra sự cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với các nước khác trên thị trường thế giới Phương pháp khấu trừ thuế trong thuế GTGT khuyến khích việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh. Về nguyên tắc, toàn bộ thuế đánh vào chi phí đầu vào của mỗi khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông sẽ được khấu trừ, như vậy số tiền thuế thu được không phụ thuộc vào chu trình lưu thông sản phẩm nên đã kích thích phát triển các loại dịch vụ trung gian giữa khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, từ đó đáp ứng được mục tiêu đề ra khi xây dựng luật thuế GTGT là thúc đẩy sản xuất và mở rộng lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Thuế GTGT cũng đã tác động lớn đến công tác quản lý doanh nghiệp. Thuế doanh thu trước đây với 11 mức thuế suất được thay thế bằng thuế GTGT hiện nay là 3 mức thuế suất. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải sắp xếp tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện tốt loại thuế này. Việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT phải thực hiện trên nguyên tắc phải có hóa đơn chứng từ, do đó buộc doanh nghiệp phải có biện pháp hoàn thiện chế độ kế toán doanh nghiệp, mở sổ sách kế toán, ghi chép và sử dụng hóa đơn chứng từ. Với quy định mọi chủ thể có hành vi sản xuất, kinh doanh các mặt hàng, các loại hình dịch vụ thuộc diện chịu thuế và có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam, thuế GTGT đã có thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Nhìn lại thuế Doanh thu, do chỉ đánh vào phần doanh thu phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam nên không có cơ sở để đánh thuế đối với hàng nhập khẩu, do đó đã tạo nên nhiều bất lợi cho hàng hóa, dịch vụ được tạo ra trong nước. Cùng một mặt hàng mà nhập khẩu thì không phải chịu thuế doanh thu trong khi các chủ thể kinh doanh hàng hóa trong nước lại phải chịu loại thuế này, điều này đi ngược với một trong những mục đích cơ bản của Nhà nước là thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Kể từ khi có thuê GTGT, mức thuế suất 10% về thuế GTGT cùng với thuế thuế Tiêu thụ đặc biệt và thuế Nhập khẩu đã bảo hộ có hiệu quả nền sản xuất trong nước. Hiện nay chúng ta đã trở thành một thành viên của WTO, các cam hội nhập mà chúng ta đã ký kết sẽ được thực hiện ở mức độ cao hơn. Chẳng hạn, theo hiệp định CEPT/AFTA đến năm 2006 chúng ta phải hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hơn 80% dòng thuế xuống mức 0% và đến năm 2015 sẽ áp dụng chung cho tất cả các mặt hàng, trừ một số mặt hàng có thể linh hoạt nhưng thời hạn cuối cùng không được quá năm 2018; còn theo hiệp đinh Việt Nam- Hoa Kỳ thì 224 dòng thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân 30%. Điều này tât yếu sẽ làm giảm thuế nhập khẩu. Trước tình đó, để đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước thì thuế GTGT, thuế Tiêu thụ đặc biệt và thuế Thu nhập doanh nghiệp sẽ đóng vai trò càng quan trọng. Tuy nhiên ngoài những ưu điểm kể trên, sau hơn 10 năm đi vào áp dụng trong thực tế, việc thực thi pháp luật thuế GTGT vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT Những yếu tố chủ quan Quy định của pháp luật Việc thực hiện pháp luật trong thực tiễn có hiệu quả hay không trước tiên đó là do bản thân quy định của pháp luật đã phù hợp hay chưa. Hệ thống văn bản pháp luật Luật thuế GTGT năm 2008; Nghị định của Chính phủ số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT; Quyết định số 96/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/4/2009 về sửa đổi một số điều của Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg, Quyết định 66/2009/QĐ-TTg và quyết định 67/2009/QĐ-TTg; Thông tư của Bộ Tài chính số 94/2010/TT-BTC ngày 30/6/2010 Hướng dẫn thực hiện hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu;... Pháp luật về thuế GTGT đã được các nhà làm luật quan tâm đến thể hiện ở hệ thống văn bản pháp luật quy định cụ thể. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ những điểm chưa được như việc sửa đổi bổ sung liên tục các văn bản và hệ thống những quy phạm pháp luật quy định rải rác trong các loại văn bản khác đã gây khó khăn cho việc tra cứu và áp dụng. Đôi khi các nội dung quy định trong văn bản còn có chỗ phức tạp, khó hiểu dẫn tới việc áp dụng không thống nhất trên thực tế. Nội dung các quy định của pháp luật Về đối tượng chịu thuế Theo điều 5 Luật thuế GTGT 2008 thì có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ Thuế suất Theo điều 8 Luật thuế GTGT 2008, hiện có 3 mức thuế suất được áp dụng đó là 0%; 5% và 10% tùy thuộc vào nhóm hàng hóa, dịch vụ. Vì chỉ có 3 mức thuế suất nên việc áp dụng thuế suất sẽ dễ dàng hơn trước đây (4 mức 0%; 5%; 10%; 20%). Việc áp dụng nhiều mức thuế suất có hiệu quả trong việc điều tiết tiêu dùng, có khả năng làm tăng thu ngân sách, đảm bảo tính công bằng trong chính sách thu qua việc muốn đánh thuế nhiều nhất vào những hàng hóa chiếm tỉ trọng lớn hơn trong chi tiêu của những chủ thể khá giả. Tuy nhiên, quy định này cũng có những hạn chế bởi chi phí cho quản lý hành chính thuế và chi phí tuân thủ pháp luật tăng, làm phức tạp các hóa đơn, sổ sách của người nộp thuế, cũng như gây khó hiểu cho việc áp dụng các mẫu hóa đơn GTGT. Với việc áp dụng 3 mức thuế suất như trên, cũng có ý kiến cho rằng nên giảm xuống chỉ còn 2 mức thuế suất trong đó 1 mức là 0% vì việc để 3 mức thuế suất như trên gây nên tình trạng áp dụng lẫn lộn giữa mức 5% và 10%, không đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT Kê khai thuế Sau nhiều lần sửa đổi các mẫu tờ khai thuế GTGT cũng như bảng kê kèm theo, Thông tư 127/2004/TT-BTC ngày 27/12/2004 của Bộ Tài chính đã quy định một mẫu tờ khai chuẩn nhất với mục đích tạo tính linh hoạt hơn trong kê khai nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ. Tuy nhiên, qua vận dụng có thể rút ra một số điểm sau: Thứ nhất, có thể thấy, tờ khai thuế GTGT mẫu mới (nêu trên) là cơ sở chính để doanh nghiệp chủ động thực hiện thuế GTGT hàng tháng (trước 25 hàng tháng), nhưng trên tờ khai chưa có chỉ tiêu thể hiện số thuế GTGT nộp thừa, thiếu trong các kì trước, đặc biệt chưa thể hiện rõ số thuế GTGT các cơ sở phụ thuộc doanh nghiệp hoạt động tại các địa phương khác trụ sở chính tạm nộp (theo quy định là tỷ lệ trên doanh thu thực hiện) chuyển số thuế này về trụ sở chính để doanh nghiệp thực hiện quyết toán, kê khai thuế một cách thuận lợi, chính xác hơn. Thứ hai, về nguyên tắc chung, đến kỳ nào đấy của năm tài chính hiện tại doanh nghiệp mới phát hiện ra sai sót thì có thể điều chỉnh các chỉ tiêu liên quan như hàng hoá, dịch vụ, thuế GTGT bán ra, mua vào... của các kỳ thuộc năm tài chính trước đây. Trong trường hợp này, việc xử lý tờ khai theo mẫu hiện hành để đảm bảo nắm bắt chính xác số liệu về thuế GTGT phải nộp của từng năm tài chính trước đây và năm hiện tại là rất khó khăn và chưa đồng bộ, nhất là thực hiện trên hệ thống máy tính của chương trình quản lý thuế hiện hành. Nên chăng cần nghiên cứu điều chỉnh quy định kê khai trong các trường hợp này kể cả về mẫu biểu thể hiện và chương trình xử lý để hoàn chỉnh hơn. Chứng từ hóa đơn Chứng từ hóa đơn trong thuế GTGT có thể nói là vấn đề phức tạp và tồn tại nhiều bất cập nhất. Thuế GTGT gắn với nghiệp vụ kinh doanh của chủ thể nộp thuế và Nhà nước thực hiện thu thuế theo kết quả kinh doanh đó. Chứng từ hóa đơn chính là cơ sở, là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với Nhà nước. Vì vậy trên thực tế các chủ thể nộp thuế thường có nhiều hành vi làm giả hóa đơn, chứng từ, thực hiện các hành vi “đạo giá” ghi trên các hóa đơn chứng từ để được khấu trừ, hoàn thuế. Trong quá trình công tác, cục thuế phát hiện nhiều doanh nghiệp được thành lập chỉ để mua, bán hóa đơn GTGT. Giám đốc các doanh nghiệp này thường là những người có lý lịch tư pháp xấu, trình độ học vấn, nghề nghiệp không phù hợp với ngành nghề kinh doanh,… Và nghiệp vụ duy nhất của các công ty này chỉ là mua bán hóa đơn. Lợi dụng chính sách thông thoáng của Nhà nước trong việc cấp giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp, cũng như lợi dụng sự lỏng lẻo về quản lý hóa đơn GTGT của cơ quan thuế, nhiều doanh nghiệp “ma” được lập ra, nhưng chỉ với chức năng duy nhất là “kinh doanh” hóa đơn GTGT, nhằm mục đích được quyết toán, hoàn thuế hoặc trốn thuế. Hiện tượng này sẽ còn tiếp diễn nếu như các biện pháp chế tài hiện hành chưa thực sự đủ mạnh để răn đe. Bên cạnh việc làm khống, làm giả hóa đơn, các doanh nghiệp khi bán hàng còn thực hiện nhiều thủ đoạn ghi giá thanh toán trên hóa đơn thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực tế mà họ bán cho khách hàng Hoàn thuế GTGT Hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế. Thực trạng hoàn thuế GTGT ở Việt Nam đã được Tiến sĩ Nguyễn Thái Phúc khái quát trong một buổi tọa đàm như sau: 1. Luật thuế GTGT khái quát đến mức sơ sài, khó áp dụng, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT quá nhiều, lại luôn thay đổi kéo theo sự không ổn định của bản thân Luật thuế GTGT; 2. Các văn bản hướng dẫn thi hành lại không phù hợp với quy định của văn bản luật hoặc nội dung các văn bản này vượt quá thẩm quyền của cơ quan ban hành. Nội dung hướng dẫn cũng chỉ là giải pháp tình thế, chắp vá mà không được nghiên cứu, không dựa trên một cơ sở lý luận nào làm cho sắc thuế GTGT dần dần bị nhào nặn bóp méo là nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định của thuế GTGT; 3. Cơ chế áp dụng, thực hiện pháp luật thuế GTGT còn nhiều yếu kém, chưa tạo dựng được một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ và thật khoa học để chuyển tải pháp luật thuế GTGT như là một sắc thuế đơn giản và tiên tiến vào cuộc sống. Với những chủ trương đổi mới theo hướng thông thoáng hơn trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, song các cơ quan nhà nước lại bị bó tay, vô hiệu hóa trước những hành vi lạm dụng sự thông thoáng đó để trục lợi trong việc hoàn thuế GTGT; 4. Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra thật hữu hiệu quy trình đăng ký nộp thuế, kê khai, khấu trừ hoàn thuế, với chủ trương “tiền thoái hậu kiểm” tạo không ít thuận lợi cho các doanh nghiệp song không phải tất cả các đối tượng được hoàn thuế đều có thể áp dụng cơ chế này Hoạt động của các chủ thể liên quan Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Cơ quan thuế Cơ quan thuế là cơ quan có vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước về thuế GTGT, giúp Nhà nước thu và truy thu thuế GTGT một cách triệt để. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều sai sót khó hiểu của cơ quan này ví dụ như những vụ việc sau: Nhiều người dân ở thành phố Cần Thơ nhận được thông báo nộp thuế nhà đất năm 2008 của Chi cục Thuế sở tại và đã phải nộp với số tiền tính theo giá thóc 2.000 đ/Kg. Các thông báo này căn cứ Quyết định số 3004 ngày 28/12/2008 của UBND thành phố Cần Thơ về giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2008. Tuy nhiên, việc căn cứ này ko hợp lý với quy định hiện hành . Bởi theo khoản 5 phần 2 Thông tư 83 ngày 7/10/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 94 của Chính phủ thì “Thuế đất thu bằng tiền tính theo giá thóc thuế sử dụng đất nông nghiệp của vụ cuối năm lền trước năm thu thuế”. Theo quy định này, thuế nhà đất năm 2008 thu bằng giá thóc cuối năm 2007 ở Cần Thơ là 1.800 đ/Kg (theo Ví dụ trên cho thấy cán bộ thuế đã mắc phải sai sót cơ bản khi không nắm vững các quy định của luật. Điều này đặt ra câu hỏi về trình độ chuyên môn, trình độ quản lý của cơ quan này. Các cơ quan khác có liên quan Để đảm bảo sự thực thi pháp luật về thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng, cơ quan thuế cần phải có sự phối hợp hoạt động với các cơ quan khác, đặc biệt là cơ quan công an. Theo Tổng cục trưởng Tổng cục thuế Nguyễn Văn Ninh, sau 4 năm triển khai phối hợp giữa Tổng cục Cảnh sát và Tổng cục Thuế, việc phát hiện, điều tra các hành vi phạm tội về thuế đã được đẩy mạnh, đặc biệt là trong hai loại tội phạm điển hình: chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT và thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua bán hóa đơn GTGT, tới nay đã có hơn 100 vụ được điều tra, khởi tố và truy thu cho nhà nước hơn 100 tỷ đồng (theo Mặc dù đã dành được một số những kết quả nhất định nhưng trong thời gian tới, khi các thủ đoạn của những đối tượng có âm mưu gian lận thuế ngày càng trở nên tinh vi hơn, đòi hỏi sự phối hợp ấy phải được củng cố chặt chẽ hơn nữa. Bên cạnh cơ quan công an, cơ quan thuế còn có thể phối hợp hoạt động với các cơ quan báo chí. Với lĩnh vực hoạt động đặc thù, phạm vi phổ biến rộng lớn, các phương tiện truyền thông là một kênh nắm bắt thông tin cũng như tuyên truyền hiệu quả nhất, đặc biệt ngày nay khi số lượng các thắc mắc, khiếu nại, tố cáo được gửi đến các cơ quan như đài truyền hình, đài phát thanh, các tờ báo nổi tiếng ngày càng nhiều. Tuy nhiên những ưu thế này vẫn chưa được cơ quan thuế thực sự quan tâm, đẩy mạnh. Các chủ thể sản xuất, kinh doanh Đây là chủ thể có vai trò vô cung quan trọng trong quan hệ pháp luật về thuế GTGT cũng như trong việc đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế. Mọi cố gắng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của mọi chủ trương, chính sách, quy định của Nhà nước cũng đều nhằm tới vệc định hướng cho hành vi của các chủ thể sản xuất, kinh doanh tuân theo pháp luật thuế GTGT. Tuy nhiên, đây cũng chính là vấn đề khó khăn nhất khi thực thi pháp luật thuế GTGT. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh, mục đích mà các chủ thể này hướng tới luôn là thu được lợi nhuận cao nhất. Để đạt được mục đích đó, bên cạnh việc cải tiến dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường, không ít người còn tìm cách trốn tránh những nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, vì lợi ích trước mắt của cá nhân mà xâm phạm lợi ích chung của xã hội. Do đó, mỗi khi pháp luật có những quy định mới, các chủ thể này trong những chừng mực nhất định đều cố tìm ra những kẽ hở để luồn lách, khiến cho những quy định ấy rất khó phát huy trong thực tiễn. Những yếu tố khách quan Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thời hạn để chúng ta thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO cũng như trong các thỏa thuận quốc tế khác đang đến rất gần. Đến năm 2015, chúng ta phải hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với tất cả các mặt hàng của các nước tham gia hiệp định CEPT/AFTA xuống mức thuế suất 0%; hay theo hiệp định thương mại Việt - Mỹ thì 224 dòng thuế nhập khẩu cũng sẽ giảm bình quân 30%. Điều này sẽ khiến cho nguồn thu ngân sách giảm đáng kể. Trước tình hình đó, chúng ta phải hoàn thiện hệ thống thuế sao cho vừa bảo hộ đ
Luận văn liên quan