Như chúng ta đã biết, tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp hội nhập kinh tế với thế giới của Việt Nam. Tuy nhiên, để phát huy tối đa vai trò đó, cần phải nắm vững nhiều vấn đề lý luận phức tạp và phải có kỹ năng thích hợp để ứng phó với những tình huống thực tiễn cụ thể. Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Thực trạng áp dụng và giải pháp nâng cao công tác thực hiện luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam”
Nhưng do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức và tham khảo tài liệu nên nhóm em khó có thể tránh được những thiếu sót. Mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2204 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng áp dụng và giải pháp nâng cao công tác thực hiện luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp hội nhập kinh tế với thế giới của Việt Nam. Tuy nhiên, để phát huy tối đa vai trò đó, cần phải nắm vững nhiều vấn đề lý luận phức tạp và phải có kỹ năng thích hợp để ứng phó với những tình huống thực tiễn cụ thể. Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Thực trạng áp dụng và giải pháp nâng cao công tác thực hiện luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam”
Nhưng do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức và tham khảo tài liệu nên nhóm em khó có thể tránh được những thiếu sót. Mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an, trong 5 năm (2002-2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả. Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn hoá – thông tin tiến hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647 cơ sở vi phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt hành chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.536 cơ sở về chấp hành các quy định sở hữu công nghiệp, xâm phạm quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và cạnh tranh không lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai phạm, buộc tiêu huỷ và loại bỏ các yếu tố vi phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Thanh tra Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng các phần mềm Windows, Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản quyền.
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài. Ví dụ như, hàng năm sản lượng nước mắm Phú Quốc chỉ đạt tối đa 15 triệu lít, nhưng có tới hàng trăm triệu lít nước mắm mang tên Phú Quốc tung ra thị trường. Hoặc Công ty Unilever Việt Nam có thời điểm bị thiệt hại do hàng nhái, hàng giả và buôn lậu lên tới hàng chục triệu USD, trong đó đã xác định được 90% hàng giả theo các nhãn hàng của Unilever là có xuất xứ từ nước ngoài.
Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một số người còn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, công nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ đã gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người, tác động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại.
2. Những hạn chế trong việc thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Hầu hết các điều khoản đã tương thích với các nội dung tương ứng tại các điều ước quốc tế song phương và đa phương nhưng Luật SHTT Việt Nam còn nhiều điểm chưa phù hợp với các đối tượng được đề cập tới trong Hiệp định TRIPS được bảo hộ như: Thông tin bí mật, chỉ dẫn địa lí, thiết kế bố trí mạch tích hợp,quyền chống cạnh tranh không lành mạnh… Chúng ta giải quyết tranh chấp trong SHTT (tính đến nay) chủ yếu được giải quyết bằng hành chính chiếm trên 90% trong khi đó tỷ lệ giải quyết tranh chấp SHTT của các quốc gia tiên tiến thì hoàn toàn ngược lại (90% được giải quyết bằng Toà án).
Số đơn xin cấp bằng sáng chế quá ít, cụ thể như sau:
Năm
Số đơn giải pháp hữu ích đã được nộp bởi
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1989
25
0
25
1990
39
25
64
1991
52
1
53
1992
32
1
33
1993
38
20
58
1994
34
24
58
1995
26
39
65
1996
41
38
79
1997
24
42
66
1998
15
13
28
1999
28
14
42
2000
35
58
93
2001
35
47
82
2002
67
64
131
2003
76
51
127
2004
103
62
165
2005
182
66
248
2006
160
76
236
2007
120
100
220
Năm
Số Bằng độc quyền pháp hữu ích đã được cấp cho
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1990
23
0
23
1991
44
1
45
1992
23
1
24
1993
9
1
10
1994
18
9
27
1995
8
16
24
1996
5
6
11
1997
8
12
20
1998
3
14
17
1999
6
12
18
2000
10
13
23
2001
17
9
26
2002
21
26
47
2003
28
27
55
2004
44
25
69
2005
41
33
74
2006
45
25
70
2007
49
36
85
Năm
Số đơn sáng chế đã được nộp bởi
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1981 - 1988
453
7
460
1989
53
18
71
1990
62
17
79
1991
39
25
64
1992
34
49
83
1993
33
194
227
1994
22
270
292
1995
23
659
682
1996
37
971
1008
1997
30
1234
1264
1998
25
1080
1105
1999
35
1107
1142
2000
34
1205
1239
2001
52
1234
1286
2002
69
1142
1211
2003
78
1072
1150
2004
103
1328
1431
2005
180
1767
1947
2006
196
1970
2166
2007
219
2641
2860
Năm
Số Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp cho
Người nộp đơn Việt Nam
Người nộp đơn nước ngoài
Tổng số
1984 - 1989
74
7
81
1990
11
3
14
1991
14
13
27
1992
19
16
35
1993
3
13
16
1994
5
14
19
1995
3
53
56
1996
4
58
62
1997
0
111
111
1998
5
343
348
1999
13
322
335
2000
10
620
630
2001
7
776
783
2002
9
734
743
2003
17
757
774
2004
22
676
698
2005
27
641
668
2006
44
625
669
2007
34
691
725
Qua đó ta thấy bằng độc quyền được cấp của các Doanh nghiệp Việt Nam là nhiều nhưng chính các doanh nghiệp lại không đăng kí nhãn hiệu nên chính họ đã “ đánh rơi thương hiệu” của mình. Như trong vụ tranh chấp kẹo “ Chew Taro” công ty bánh kẹo Hải Hà đã bị công ty bánh kẹo Hải Châu vi phạm điều đương nhiên công ty bánh kẹo Hải Châu đã tự đánh mất mình còn công ty bánh kẹo Hải Hà thì bị đánh cắp nhãn hiệu.
Rất nhiều Doanh nghiệp và người dân chưa nắm vững ý nghĩa, nội dung của cơ chế bảo hộ SHTT. Trong thực tế nhiều doanh nghiệp tưởng rằng hoạt động kinh doanh của mình không liên quan gì đến vấn đề SHTT nếu mình không có các đối tượng SHTT được đăng ký. Tuy nhiên môi trường pháp lý với cơ chế bảo hộ SHTT đã đặt mọi Doanh nghiệp Việt Nam rơi vào những ràng buộc và có thể sẽ bị rơi vào các vụ kiện tụng, tranh chấp với Doanh nghiệp khác vì chưa chú trọng việc đăng ký bảo hộ SHTT (nhãn hiệu, kiểu dáng, sáng chế…).
Trước khi Luật SHTT Việt Nam ra đời, việc xem xét cấp bằng bảo hộ SHTT cho cả nội dung và hình thức kéo dài khoảng 1 năm. Khi Luật SHTT ra đời thì mới rút ngắn thời gian cấp bằng kể từ thời điểm nộp hồ sơ xuống còn 6 tháng. Thời gian tuy đã được rút ngắn nhưng đối với Doanh nghiệp nó vẫn còn dài vì trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế thì sự chậm chễ trong cấp bằng sáng chế gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Mặt khác thủ tục đăng ký SHTT thì rườm rà.
3. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng.
Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng tham gia, kể cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, nhiều người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động.
Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay rất ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, hầu như chưa có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có những doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến khi biết, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, coi như “chấp nhận sống chung với hàng giả”.
Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003... Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm.
Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại không quá 10 trường hợp.
CHƯƠNG II: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM
I. Đối với nhà nước
Hệ thống luật pháp là công cụ để nhà nước quản lý và xây dựng đất nước. Quá trình hội nhập kinh tế - xã hội của nước ta không thể tách rời với việc cài cách khung pháp lý của nước ta. Hệ thống pháp luật của nước ta còn sơ khai, so với tiêu chuẩn Quốc tế thì hệ thống luật pháp của ta còn nhiều yếu kém.Vì vậy chúng ta cần xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, hoàn chỉnh, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế và nhất là yêu cầu của tiến trình gia nhập WTO. Để ra nhập WTO nước ta đã phê chuẩn một số công ước Quốc tế và xây dựng mới hơn Luật và pháp lệnh, sửa đôỉ và bổ sung gần 20 luật, pháp lệnh cho phù hợp với 16 hiệp định chính của WTO. Trong thời gian tiếp theo chúng ta phải đẩy nhanh hơn nữa những điều chỉnh, bổ sung đối với Luật SHTT và quy định liên quan đến cơ chế bảo vệ quyền SHTT.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, hiện thực, khách quan, quy trình xây dựng thể chế, Luật SHTT cần được đổi mới, tạo cơ chế phản biện, thẩm định hợp lý,nâng cao năng lực, thu hút đội ngũ cán bộ, chuyên gia, kể cả chuyên gia tư vấn nước ngoài vào xây dựng thể chế.
Xây dựng và hoàn chỉnh thể chế, hệ thống văn bản tiêu chuẩn nghiệp vụ, làm cơ sở pháp lý và khoa học cho việc xây dựng, quản lý đội ngũ thẩm phán, luật sư… Công tác cán bộ, công chức cần được đổi mới từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý đến xây dựng các chế độ chính sách.
Xây dựng ý thức về quyền tác giả văn học, nghệ thuật phải tiến hành đồng bộ với việc xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ bảo hộ quyền tác giả vì nó chính là sự chuyển hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, truyền thống dân tộc và thực tế cuộc sống.
Thủ tục đăng kí SHTT phải nhanh gọn để rút ngắn thời gian cấp bằng kể từ thời điểm nộp hồ sơ để tránh gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Cục sở hữu trí tuệ phải phấn đấu đưa việc bảo hộ trí tuệ đạt tới chuẩn mực của Hiệp định TRIPS - WTO. Nâng cao chất lượng xét xử vi phạm SHTT tại các Toà án.
II. Đối với doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp chỉ có việc nâng cao năng lực cạng tranh của mình, của sản phẩm dịch vụ do mình sản xuất, đạt đến trình độ chắc chắn giành được chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế. Như vậy, doanh nghiệp cần phải chú trọng đến việc đăng kí bảo hộ SHTT (nhãn hiệu, kiểu dáng, sáng chế …) để tránh rơi vào những tranh chấp, kiện tụng có thể gây thiệt hại lớn tới doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh, yếu tố quyết định thắng lợi khi gia nhập kinh tế quốc tế lại chính là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham dự sân chơi toàn cầu. Điểm này chở nên gay gắt hơn bởi mức độ sẵn sàng hội nhập thấp của không ít các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Với một xuất phát thấp về cạnh tranh, với một nhận thức không đầy đủ về luật cạnh tranh trong nước và các nước khác trên thế giới đặc biệt về luật SHTT nên doanh nghiệp cần chú trọng phát triển thương hiệu của doanh nghiệp mình. Thương hiệu có tác dụng to lớn đối với cả doanh nghiệp và khách hàng của doanh nghiệp, nhất trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế do đó mà doanh nghiệp bồi dưỡng, tuyển dụng những cố vấn luật, những luật sư để cố vấn cho doanh ngiệp trong việc bảo vệ thương hiệu của mình.
Bên cạnh đó doanh nghiệp cần phải phổ biến kiến thức về Luật SHTT cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
III. Đối với người tiêu dùng
Hiện nay hiểu biết của người tiêu dùng về luật SHTT còn hạn chế. Vì vậy, người tiêu dùng cần nâng cao ý thức về luật SHTT của mình bằng cách hiểu và chấp hành luật SHTT tăng cường đóng góp ý kiến cho Nhà nước trong việc xây dựng luật SHTT.
KẾT LUẬN
Pháp Luật về SHTT của Việt Nam đã được hình thành và phát triển như là một chỉnh thể. Nhưng trên thực tế tình trạng xâm phạm quyền SHTT đang xảy ra rất phổ biến và ngày càng có nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Nguyên nhân chính không phải là do Luật SHTT chưa hoàn thiện mà do việc thực thi nó còn nhiều hạn chế, bất cập và chồng chéo hơn nữa nhiều doanh nghiệp cũng chưa biết tự bảo vệ mình. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay đối với Nước ta là làm sao để Luật SHTT phát huy tốt nhất hiệu quả của nó trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, các doanh nghiệp có ý thức hơn trong việc bảo vệ chính mình trước sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Làm được điều này đỏi hỏi phải có sự nghiêm túc trong việc chỉ đạo và thực hiện công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.