Đề tài Thực trạng công tác đặc xá

Đặc xá là hoạt động đặc biệt, một hình thức thểhiện tính nhân đạo của Nhà nước, do người có thẩm quyền quyết định theo quy định của Hiến pháp nhằm miễn chấp hành hình phạt (hoặc thay đổi hình phạt khác nhẹhơn) đối với người đang chấp hành hình phạt với những điều kiện, tiêu chuẩn hoặc khi có những sựkiện nhất định. Đặc xá thường được tổchức nhân dịp những sựkiện trọng đại của đất nước, của dân tộc và đáp ứng nhiệm vụcủa Nhà nước trong từng giai đoạn cụthể.

pdf29 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2390 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác đặc xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 VĂN PHÒNG QUỐC HỘI - Thông tin chuyên đề- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ TRUNG TÂM THÔNG TIN, THƯ VIỆN VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - HÀ NỘI, THÁNG 03/2007 - MỤC LỤC I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................................3 1. Khái niệm, đặc điểm của đặc xá .......................................................................3 1.1. Đặc xá là hoạt động đặc biệt .....................................................................3 1.2. Đặc xá thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước............................................4 1.3. Đặc xá do người có thẩm quyền quyết định..............................................5 1.4. Về điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng được xét đặc xá...........................6 1.5. Về thời điểm quyết định đặc xá.................................................................7 2. Ý nghĩa của đặc xá............................................................................................8 2.1. Ý nghĩa tích cực........................................................................................8 2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................ 10 3. Những nguyên tắc của đặc xá........................................................................ 11 3.1 Nguyên tắc pháp chế ............................................................................... 11 3.2. Nguyên tắc nhân đạo .............................................................................. 11 3.3. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai và minh bạch................................................................................................................ 12 3.4. Nguyên tắc bảo đảm kịp thời về thời gian ............................................. 12 4. Phạm vi, đối tượng đặc xá ............................................................................. 13 II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ Ở NƯỚC TA ................................... 15 1. Về tiêu chuẩn, điều kiện đặc xá ..................................................................... 15 1.1. Điều kiện cố định .................................................................................. 15 1.2. Tiêu chuẩn, điều kiện không cố định ..................................................... 16 2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đặc xá ............................................................. 20 2.1. Về thẩm quyền đặc xá ............................................................................ 20 2.2 Cơ quan, tổ chức giúp việc và trình tự, thủ tục đặc xá............................ 22 3. Những kết quả đã đạt được trong công tác đặc xá......................................... 25 3.1. Mặt tích cực............................................................................................ 25 3. 2. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................... 26 3.3. Công tác tiếp nhận và giúp đỡ người được đặc xá còn hạn chế, tỷ lệ tái phạm cao........................................................................................................ 27 4. Một số vấn đề về pháp luật về đặc xá............................................................ 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 29 2 I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Khái niệm, đặc điểm của đặc xá Đặc xá là hoạt động đặc biệt, một hình thức thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước, do người có thẩm quyền quyết định theo quy định của Hiến pháp nhằm miễn chấp hành hình phạt (hoặc thay đổi hình phạt khác nhẹ hơn) đối với người đang chấp hành hình phạt với những điều kiện, tiêu chuẩn hoặc khi có những sự kiện nhất định. Đặc xá thường được tổ chức nhân dịp những sự kiện trọng đại của đất nước, của dân tộc và đáp ứng nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. 1.1. Đặc xá là hoạt động đặc biệt Đặc xá là việc tha tù, trả tự do trước thời hạn cho người bị kết án đang chấp hành hình phạt. Đây là hoạt động đặc biệt vì chỉ có người có thẩm quyền ra quyết định làm chấm dứt việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đang chấp hành hình phạt (mà chủ yếu là hình phạt tù), hoặc áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt người đó phải thực hiện theo bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật và đã đưa ra hoặc đang chờ thi hành. Đặc xá là hoạt động đặc biệt còn bởi vì, thông thường theo quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự thì các bản án, quyết định về hình sự của TAND đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng, công dân và các đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Để thực hiện nội dung trên, Nhà nước đã ban hành pháp luật và thiết lập cơ quan thi hành án hình sự cùng với việc đầu tư hệ thống trại giam, tạm giam để thực hiện có hiệu quả, phù hợp với tính chất, mức độ từng loại hình phạt. Vì vậy, người có hành vi phạm tội bị Nhà nước quyết định buộc họ phải chịu một mức hình phạt tương ứng với tính nguy hiểm mà họ gây ra cho xã hội, Nhà nước đã áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất (mà các loại cưỡng chế khác như dân sự, hành chính, lao động không có) là tước bỏ hoặc hạn chế trong một thời hạn hay vĩnh viễn một số hoặc tất cả các quyền, lợi ích cơ bản của công dân như về chính trị, kinh tế, như: quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan, tổ chức; không được tự do kinh doanh; bị cách ly khỏi xã hội, hạn chế các quyền tự do của công dân, quyền tự do hôn nhân, đi lại, cư trú, tài sản; bị hạn chế các sở thích chính đáng về vật chất, tinh thần… trong thời gian chấp hành hình phạt, thậm chí bị tước bỏ quyền được sống khi bị tuyên phạt tử hình. Lẽ ra theo bản án đã có hiệu lực thi hành thì Nhà nước buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt đúng với các nội dung bản án đã quyết 3 định… Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định người có thẩm quyền được quyết định tha một phần hay toàn bộ cho những người phải chấp hành hình phạt và khôi phục một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khi có quyết định đặc xá thì bản án đã có hiệu lực pháp luật đang được thi hành sẽ không có hiệu lực (người bị kết án tử hình thì sẽ không phải thi hành loại hình phạt đó nữa mà chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn), đồng thời những tình huống có lợi cho người được đặc xá sẽ được thực hiện. 1.2. Đặc xá thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước Tính nhân đạo được thể hiện trên nhiều phương diện, từ chính sách hình sự đến việc trừng phạt kết hợp giáo dục cải tạo, chế độ giam giữ, chương trình giáo dục, cải tạo người bị kết án đang chấp hành hình phạt; chế độ thăm nuôi … Riêng về hoạt động giảm án, tha tù trước thời hạn cho người đang chấp hành hình phạt cũng có nhiều hình thức khác nhau do nhiều cơ quan và người có trách nhiệm thực hiện với thẩm quyền, thủ tục và trình tự khác nhau, cụ thể là: - Đại xá: Là việc tha, trả tự do cho những người đang chấp hành hình phạt với những loại tội nhất định. Đại xá thường có quy mô lớn được thực hiện trong những sự kiện chính trị pháp lý lớn của đất nước: như giành được chính quyền, ngày thống nhất đất nước, việc đại xá do Quốc hội quyết định trên cơ sở của Hiến pháp. Hoặc đại xá được đặt ra trước những thay đổi của Nhà nước trong chính sách hình sự, chẳng hạn như hành vi trước đó là tội phạm nhưng sau đó không bị coi là phạm tội… Thí dụ, tại điểm c, khoản 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 được Quốc hội khoá X thông qua ngày 21/12/1999 về thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định : “ …trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì họ được miễn toàn bộ hình phạt”. - Đặc xá: Là việc tha tù, trả tự do trước thời hạn do Chủ tịch nước quyết định trên cơ sở của Hiến pháp, còn ân giảm án tử hình cũng do Chủ tịch nước quyết định dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, với trình tự, thủ tục khác nhau, cơ quan giúp việc và tổ chức thực hiện cách thức khác nhau. Có thể phân chia đặc xá trên cơ sở quy mô: Đặc xá được thực hiện cho nhiều người (quy mô lớn) đối với những đối tượng có điều kiện, tiêu chuẩn nhất định. Hoặc đặc xá được thực hiện theo yêu cầu đột xuất trong những trường hợp 4 cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể (thường là đơn lẻ) để phúc đáp chính sách đối nội, đối ngoại, chẳng hạn tha bổng cho người phạm tội, bất kể người đó phạm tội và bị áp dụng hình phạt gì hoặc việc ân giảm cho người bị kết án tử hình …Tuỳ theo tính chất, mức độ quy mô đặc xá để giúp Chủ tịch nước thực hiện quyền hạn của mình. Nếu đặc xá có quy mô lớn thì thông thường thành lập Hội đồng tư vấn đặc xá ở trung ương và cấp tỉnh, Hội đồng này hoạt động có tính chất lâm thời, bao gồm đại diện lãnh đạo của các cơ quan Nhà nước làm tư vấn. - Hoạt động giảm án tha tù, miễn chấp hành hình phạt chính, hình phạt bổ sung …: Hoạt động này do Tòa án nhân dân quyết định theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Đó là hoạt động tư pháp chịu sự kiểm sát của VKSND. Những đối tượng được giảm án cũng phải có những điều kiện, tiêu chuẩn nhất định, nhiều khi giống điều kiện được đặc xá, tuy nhiên hoạt động này được thực hiện thường xuyên, thời gian được giảm cũng hạn chế. Về việc thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như ra ân (do Nhà nước ban), ân xá (tha, trả tự do), ân giảm (giảm thời hạn), phóng thích tội đồ, phóng thích (tù binh chiến tranh), giảm án tha tù trước thời hạn.... Giảm án và tha tù có nhiều điểm giống nhau về bản chất và điều kiện, nhưng cũng có những điểm không đồng nhất. Điểm giống nhau là đều thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước, là tạo ra hậu quả có lợi hơn cho người đang chấp hành hình phạt. Sự không đồng nhất thể hiện là việc giảm án thì rút ngắn thời gian chấp hành hình phạt (mức giảm án ít hơn hình phạt tù đã tuyên, nên mặc dù được giảm án nhưng vẫn phải tiếp tục thi hành cho đến hết thời hạn mới được trả tự do), còn tha tù là trả tự do cho người đang chấp hành hình phạt tù. Việc ân giảm án tử hình là việc đặc xá tha cho người bị kết án tử hình (người bị tước bỏ cuộc sống) được chuyển xuống hình phạt khác nhẹ hơn là hình phạt tù. 1.3. Đặc xá do người có thẩm quyền quyết định Người có thẩm quyền quyết định đặc xá được quy định bởi Hiến pháp. Thẩm quyền quyết định đặc xá của mỗi quốc gia được quy định khác nhau, tuy nhiên thông thường là người có thẩm quyền cao nhất của đất nước, đại diện cho Nhà nước đặc xá cho phạm nhân trong phạm vi lãnh thổ của mình. Thẩm quyền đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay có sự khác nhau do phân công, tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước trong từng giai đoạn trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật. 5 Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992, đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước – là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại – là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn, có liên quan và tác động đến hoạt động lập pháp, đến tổ chức và hoạt động hành pháp, đến hoạt động kiểm sát và xét xử trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước nhằm thực hiện tốt chức năng đối nội và đối ngoại. Các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Quyết định của Chủ tịch nước có giá trị pháp lý cao, các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải nghiêm chỉnh thi hành. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong đó có công tác đặc xá. 1.4. Về điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng được xét đặc xá Cùng là quyết định về đặc xá nhưng nội dung về các điều kiện, tiêu chuẩn được quy định trong quyết định hàng năm thường khác nhau, trên cơ sở tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể tại thời điểm ban hành. Đặc biệt, đối với việc đặc xá cho từng đối tượng cụ thể thì các trường hợp này sẽ khác nhau về các điều kiện, tiêu chuẩn. Qua nghiên cứu về đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay thấy rằng, việc quy định về điều kiện và tiêu chuẩn của người chấp hành hình phạt để được xét đặc xá là nội dung trọng tâm, là yếu tố quyết định về số lượng đặc xá tha tù có quy mô lớn. Các điều kiện và tiêu chuẩn do Nhà nước đặt ra có những điều kiện khá cố định (đối với bản thân người đang chấp hành án) và có những điều kiện thường xuyên thay đổi được ghi ngay trong quyết định đặc xá hằng năm hay từng đợt. Cụ thể là: Các điều kiện cố định: Trong các lần đặc xá hằng năm đều quy định điều kiện này, đó là người chấp hành hình phạt nhận ra lỗi lầm của mình, phải có sự rèn luyện, phấn đấu tích cực lao động, học tập để được hưởng sự khoan hồng. Các điều kiện không cố định: Các điều kiện này luôn thay đổi, do Nhà nước quy định dựa trên tình hình, yêu cầu, phúc đáp nhiệm vụ hàng năm. Cụ thể là: Người phạm vào loại tội được xét và loại tội không được xét đặc xá; Thời gian đã chấp hành hình phạt (đối với những loại tội khác nhau thì thời gian hàng năm cũng khác nhau, chẳng hạn đối với tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình..); Các điều kiện ngoại lệ (là thương binh, gia đình liệt sỹ, nuôi con nhỏ, được thưởng huân huy chương, lập công, dũng cảm…). Đặc xá trong trường hợp đặc biệt thì tiêu 6 chuẩn, mức độ hàng năm rất khác nhau; thành phần cơ quan giúp việc và thủ tục cũng khác. Có thể thấy rằng, lĩnh vực đặc xá rất quan trọng trong đời sống xã hội, được ghi nhận trong Hiến pháp và sớm được Nhà nước thực hiện ngay từ khi mới giành được chính quyền năm 1945 và suốt hơn 60 năm qua công tác này luôn được Nhà nước quan tâm và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, xuất phát từ những biến đổi liên tục, không ổn định thuộc nội dung quan trọng là tiêu chuẩn, điều kiện của đối tượng (và một số nội dung khác) nên khó ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, mang tính ổn định, lâu dài để điều chỉnh lĩnh vực này như Bộ luật, Luật của Quốc hội hoặc Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, mà tuỳ theo tình hình thực tế của mỗi năm Nhà nước có chủ trương đặc xá thông qua các văn bản pháp luật như các sắc lệnh, quyết định, nghị quyết … của Chủ tịch nước, Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trên cơ sở đó lại giao cho các bộ, ngành liên quan hoặc cơ quan tư vấn đặc xá ban hành các văn bản khác qui định hướng dẫn cụ thể. 1.5. Về thời điểm quyết định đặc xá Đặc xá được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Mỗi quốc gia có những mốc thời gian ấn định ngày trọng đại khác nhau, sự kiện khác nhau nhưng nhìn chung vẫn coi ngày độc lập là ngày lễ trọng đại nhất. Hiện nay, ở nước ta tuy không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về những thời điểm đặc xá, nhưng từ năm 1945 đến nay thời điểm đặc xá được thực hiện theo tiền lệ hàng năm cứ đến ngày trọng đại của đất nước khi ban hành quyết định đặc xá. Thời điểm được quy định tại phần căn cứ ban hành, cụ thể là: Theo Sắc lệnh số 148 ngày 10/8/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà thì: “Xét nhân dịp nhất chủ niên cuộc Cách mạng tháng Tám nay ra ân cho các phạm nhân đã bị kết án nhất định”. Trong Sắc lệnh số 11-SL ngày ngày 22/1/1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà có ghi “Xét nhân ngày kỷ niệm lần thứ tư cuộc Cách mạng tháng Tám và ngày Độc lập 2/9/1945 nên ra ân cho phạm nhân đã bị kết án nhất định”.. Trong Thông tư số 313/TTG ngày 19/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ về việc ân xá, ân giảm nhân dịp ngày 2/9/1957 đã nêu rõ “ Nhân dịp Quốc khánh ngày 2/9/1957, theo lệ thường Chính phủ sẽ ân xá, ân giảm cho những phạm nhân xét ra đã được cải tạo…”. Nghị quyết số 4 NQ/TVQH ngày 29/8/1960 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định đặc xá cho một số phạm nhân “Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà”... Gần đây nhất, tại Quyết định số 797/2006/QĐ-CTN ngày 7/7/2006 của Chủ tịch nước 7 quyết định về đặc xá năm 2006 cũng quy định tại Điều 1 là: “ Thực hiện đặc xá tha tù cho những người bị kết án phạt tù nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 02/9/2006)”… Qua các dẫn chứng trên có thể khẳng định rằng, thời điểm đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay được thực hiện chủ yếu nhân sự kiện trọng đại của đất nước, của dân tộc, đó là những ngày Quốc khánh 2/9, ngày 30/4 thống nhất đất nước và ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Nhất là vào những năm chẵn thì đặc xá được thực hiện với quy mô lớn; chẳng hạn năm 2000 đã đặc xá cho 23.827 người. 2. Ý nghĩa của đặc xá 2.1 Ý nghĩa tích cực Đặc xá có nhiều ý nghĩa tích cực trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. - Về chính trị: Đặc xá thể hiện Nhà nước luôn luôn quan tâm đến người dân, kể cả trong trường hợp họ phạm tội, đang bị trừng phạt, qua quá trình cải tạo họ đã tiến bộ, đạt được tiêu chuẩn, điều kiện nhất định thì Nhà nước thay đổi chính sách trừng phạt đối với họ, khôi phục quyền, lợi ích cơ bản của công dân. Thực tế là Nhà nước cho họ được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo, thể hiện rõ sự quan tâm của Nhà nước với công dân. Công tác đặc xá đã có tác dụng quan trọng giáo dục, động viên người phạm tội tích cực cải tạo và hoàn lương, góp phần vào việc ổn định tình hình đất nước trong điều kiện chính quyền còn non trẻ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ rất gian khổ và kéo dài, toàn quốc phải huy động toàn bộ sức người, sức của phục vụ nhiệm vụ chính trị xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của đất nước. Đặc xá cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự chú ý, quan tâm của dư luận xã hội, đặc biệt là thân nhân gia đình của những người được đặc xá, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ. - Về đối ngoại: Trước tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp thì công tác đặc xá đã thể hiện bản chất nhân đạo, truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam, chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta đối với người phạm tội. Kết quả các đợt đặc xá đã được nhân dân trong nước đồng tình, được dư luận thế giới hoan nghênh và đánh giá cao về tính nhân đạo, công khai và minh bạch trong chủ trương cũng như trong quá trình triển khai thực hiện. Kết quả công tác đặc xá cùng với những biện pháp tích cực tuyên truyền có tác dụng làm cho bạn bè hiểu rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời đập tan nhiều âm mưu, hành 8 động của thế lực nước ngoài và tay sai phản động luôn rêu rao, nói xấu, bịa đặt vấn đề tôn giáo, nhân quyền ở nước ta. - Về kinh tế: Làm tốt công tác đặc xá có tác dụng về kinh tế đối với Nhà nước, xã hội. Kết quả thực hiện đặc xá với việc hàng năm tha cho một số lượng đáng kể phạm nhân đang chấp hành phạt tù có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi cho ngân sách Nhà nước, vì phải đầu tư cho hệ thống các trại giam, trại tạm giam, giảm những khoản chi mua sắm trang thiết bị phục vụ, các chế độ bảo đảm để nuôi dưỡng phạm nhân, đặc biệt là chi phí để đào tạo, tuyển dụng và duy trì lực lượng cán bộ quản lý, canh gác phạm nhân. Đây là khoản ngân sách không nhỏ, nếu giảm được khoản chi đó thì Nhà nước có thêm điều kiện tập trung kinh phí làm những việc cần thiết khác. Đồng thời, khi người được đặc xá về với gia đình, địa phương để lao động sản xuất sẽ có hiệu quả cao hơn, góp phần làm ra nhiều của cải cho bản thân, gia đình và xã hội; đồng thời sẽ giảm được nhiều công sức, thời gian và tiền của do gia đình, thân nhân của họ phải bỏ ra khi đi thăm nom. - Đặc xá góp phần tích cực trong công tác thi hành án phạt tù. Một trong những nguyên nhân đề nghị Chủ tịch nước đặc xá cho người chấp hành hình phạt tù vì việc đặc xá tha tù cũng góp phần giảm áp lực tại các trại giam, trại tạm giam trong điều kiện giam giữ quá tải đang