Trên thế giới, Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây rất lâu. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm phải giải quyết tốt việc “ thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH , đảm bảo đời sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện”. tiếp đó là nghị quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh ” thực hiện chính sách xã hội đảm bảo an toàn cuộc sống mọi thành viên trong cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”.
Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động cũng như gia đình họ trong trường hợp rủi ro xảy ra thông qua chính sách BHXH. Và BHXH là chỗ dựa đáng tin cậy của họ, quỹ BHXH sẽ đứng ra chi trả cho các tổn thất mà rủi ro đó đưa đến trong phạm vi của mình. Tuy nhiên, việc chi trả các chế độ BHXH có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH mà quỹ BHXH có được dồi dào hay không lại phụ thuộc vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm: người lao động, chủ sử dụng lao động và hỗ trợ của Nhà nước theo luật định. Do đó, công tác thu BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định trong việc hình thành quỹ BHXH.
Nhận thức thấy công tác thu trong BHXH là rất quan trọng và trong thời gian thực tập tại BHXH Huyện Phú Xuyên, được sự dẫn dắt chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú trong cơ quan , em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 đến nay” làm chuyên đề thực tập của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương:
Chương I : Lý thuyết cơ bản về BHXH và quản lý thu BHXH .
Chương II : Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên thành phố Hà nội giai đoạn 2005 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên.
72 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3919 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây rất lâu. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm phải giải quyết tốt việc “ thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH , đảm bảo đời sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện”. tiếp đó là nghị quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh ” thực hiện chính sách xã hội đảm bảo an toàn cuộc sống mọi thành viên trong cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”.
Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động cũng như gia đình họ trong trường hợp rủi ro xảy ra thông qua chính sách BHXH. Và BHXH là chỗ dựa đáng tin cậy của họ, quỹ BHXH sẽ đứng ra chi trả cho các tổn thất mà rủi ro đó đưa đến trong phạm vi của mình. Tuy nhiên, việc chi trả các chế độ BHXH có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH mà quỹ BHXH có được dồi dào hay không lại phụ thuộc vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm: người lao động, chủ sử dụng lao động và hỗ trợ của Nhà nước theo luật định. Do đó, công tác thu BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định trong việc hình thành quỹ BHXH.
Nhận thức thấy công tác thu trong BHXH là rất quan trọng và trong thời gian thực tập tại BHXH Huyện Phú Xuyên, được sự dẫn dắt chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú trong cơ quan , em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 đến nay” làm chuyên đề thực tập của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương:
Chương I : Lý thuyết cơ bản về BHXH và quản lý thu BHXH .
Chương II : Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên thành phố Hà nội giai đoạn 2005 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên.
Em xin chân thành cảm ơn các bác lãnh đạo cùng tập thể các cán bộ ở Bảo hiểm xã hội huyện Phú xuyên và cô giáo hướng dẫn Th.s. Tôn Huyền. đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và làm chuyên đề thực tập. Trong quá trình làm chuyên đề thực tập mặc dù em đã cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được các các cán bộ ở Bảo hiểm xã hội huyện Phú xuyên và cô giáo góp ý để em hoàn thiện hơn về kiến thức và nâng cao vốn hiểu biết của mình.
Hà nội, ngày 26 tháng 04 năm 2010
Sinh viên
Lê Thị Thu Trang.
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1.1: Tồng quan về BHXH.
1.1.1: Nguồn gốc ra đời và Sự cần thiết khách quan của BHXH.
Trong xã hội, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn mặc ở… Để thỏa mãn nhu cầu này, con người cần phải lao động sáng tạo không ngừng tạo ra của cải vật chất phục vụ những nhu cầu tối thiểu này.Của cải càng nhiều thì nhu cầu ngày càng tăng, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người.Trong thực tế không phải lúc nào con người cũng đủ khả năng để lao động sản xuất đảm bảo cuộc sống ổn định, rủi ro thường mang tính bất ngờ nên có thể xảy ra bất cứ khi nào,chẳng hạn như: tai nạn lao động, ốm đau, thai sản, già yếu…và người lao động không thể làm chủ được tình huống này do đó dễ rơi vào tình trạng mất cân bằng trong cuộc sống. Bên cạnh đó, khi gặp phải rủi ro, những nhu cầu tối thiểu của con người không những không giảm đi mà còn gia tăng thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới.Để giảm bớt rủi ro bất hạnh thì ngoài việc bản thân người lao động khắc phục, cần phải có sự hỗ trợ của cộng đồng và xã hội.
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội, sự tương trợ cũng phát triển và mở rộng theo nhiều hình thức khác nhau.
Thời kỳ công xã nguyên thủy, con người sống tập trung thành bầy đàn, hình thức sinh sống chủ yếu là săn bắn hái lượm, sản phẩm được phân phối bình quân cho mọi người nên khó khăn bất lợi của mỗi người được cả xã hội san sẻ.
Đến thời kỳ xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng xã, ngoài ra họ có thể đi vay đi xin. Tuy nhiên đó mới chỉ là khả năng, có thể có và cũng có thể không, không hoàn toàn chắc chắn.
Sức sáng tạo của con người ngày càng tăng, xã hội cũng ngày càng phát triển lên trình độ cao hơn, xuất hiện nền kinh tế hàng hóa, mọc lên nhiều cơ sở sản xuất và nhu cầu nhân công gia tăng.Điều này làm cho xã hội xuất hiện hai giới cơ bản : giới những người thuê lao động (giới chủ) và giới những người lao động (giới thợ ).
Giữa hai giới này tồn tại những mâu thuẫn rất gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng quan điểm trong việc thỏa thuận lợi ích hai bên. Trong số rất nhiều mâu thuẫn khác nhau thì mâu thuẫn sau càng trở nên gay gắt:
+ Mâu thuẫn về việc kéo dài thời gian lao động.
+ Mâu thuẫn về tiền lương tiền công.
+ Mâu thuẫn về thu nhập khi người lao động nghỉ việc.
+ Mâu thuẫn khi người lao động về già chết.
Cuộc tranh giành diễn ra gay gắt và tác động đến nhiều mặt của đời sống, xã hội, hậu quả là sản xuất bị đình đốn, thể chế chính trị bị lung lay, các nguồn lực trong xây dựng sản xuất bị xâm phạm. Chính vì vậy, chính phủ các nước phải can thiệp bằng cách :
+ Thứ nhất, yêu cầu giới chủ trích một phần từ lợi nhuận của mình để đóng góp vào nguồn quỹ mang tính xã hội.
+ Thứ hai, vận động người lao động đóng góp một phần từ khoản thu nhập của mình nộp vào quỹ xã hội chung đó nhằm mục đích giải quyết khó khăn cho người lao động trong trường hợp không may có biến cố rủi ro xảy ra.
Thời gian đầu cả giới thợ và giới chủ đều không chấp nhận cách giải quyết này, cuộc đấu tranh diễn ra càng gay gắt với quy mô rộng khắp hơn. Chính vì vậy Chính phủ các nước phải can thiệp lần hai, với tư cách là bên thứ ba đóng góp vào quỹ tài chính chung đó. Khi đó cả người lao động và giới chủ nhận thấy mình đều có lợi và mục đích ban đầu đã đạt được. Cả ba bên đưa ra bản cam kết về việc xây dựng và hình thành nguồn quỹ này nhằm bảo vệ người lao động khi rủi ro biến cố xảy ra.
Tất cả những vấn đề trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội cho người lao động
Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan, do sự đòi hỏi của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh,khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH. Vì vậy BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan. Vì vậy khái niệm “ Bảo hiểm xã hội ” trở nên gần gũi gắn bó với mọi người đặc biệt là người lao động. Do đó có thể hiểu BHXH theo các cách như sau:
- “ BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không sử dụng được, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội thông qua một loạt các biện pháp công cộng ( bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội do bị mất hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau , mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết đi. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khỏe và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO ), phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối cùng của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi con người.
Ngoài ra còn có một số khái niệm về BHXH xét trên các khía cạnh khác:
+ Xét trên khía cạnh pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng tiền đóng của người lao động, người sử dụng lao động, và được sự tài trợ bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật ( hưu ) hoặc chết.
+ Xét trên giác độ tài chính: BHXH là thuật ( kỹ thuật ) chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của Pháp luật.
+ Xét trên giác độ chính sách xã hội : BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các rủi ro xã hội , nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
1.1.2: Đối tượng của BHXH:
Ở đây cần phân biệt rõ đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đam bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động tham gia BHXH.
Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa công bằng với tất cả những người lao động. Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH được sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH, nó quyết định sự tồn tại và phát của BHXH một cách ổn định và bền vững.
1.1.3: Bản chất của BHXH.
Như đã trình bày ở trên, BHXH ra đời là do những mối quan hệ ràng buộc, những mâu thuẫn mà người lao động và người sử dụng lao động không thể giải quyết được, đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra can thiệp.Bản chất của BHXH thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa.Kinh tế càng phát triển thì hệ thống BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì vậy có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. Một nền kinh tế càng phát triển,. đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHX H có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.
Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH ) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người: ốm đau, tai nạn…hoặc những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên: thai sản, tuổi già…Đồng thời những biến cố có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những rủi ro biến cố sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, gọi là quỹ BHXH Nguồn quỹ này do các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập.
- Mục tiêu của BHXH là đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp mất hoặc giảm thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu khác đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Tóm lại, BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội.Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH đã thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
1.1.4: Chức năng của BHXH.
BHXH có chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc và những người ốm yếu phải nghỉ việc. Thực hiện được chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng say sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh, tham gia lao động được người sử dụng lao động trả tiền lương tiền công. Khi ốm đau bệnh tật, tai nạn lao động, thai sản, hưu trí đã có BHXH trợ cấp thay thế phần thu nhập đã bị mất. Vì vậy họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Chính vì thế, người lao động an tâm làm việc và gắn bó với công việc hơn, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương , tiền công, thời gian lao động… được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển an toàn hơn.
1.1.5: Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động Quốc tế đã nêu trong Công ước số 102 tháng 06 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp cho người còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ ( 3 ); ( 4 ); ( 5 ); ( 8 ); ( 9 )
Đặc điểm chủ yếu của hệ thống BHXH:
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
- Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả thì mức chi trả sẽ là cao và ổn định.
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và tiền mặt được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
- Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Đối với Việt Nam hiện nay, cơ bản chúng ta quy định có 5 chế độ:
1. Chế độ ốm đau
2. Chế độ thai sản
3.Chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ tử tuất
5. Chế độ hưu trí
Năm 2006, BHXH bước sang giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI, ngày 26 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan trọng trong đó có Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký lệnh số 13/2006/L – CTN ban hành ngày 12/07/2006 về BHXH. Điểm mới của văn bản Luật này là, ngoài hình thức BHXH bắt buộc, việc mở rộng hình thức BHXH tự nguyện và hình thức bảo hiểm thất nghiệp, đã được quy định tại chương IV, chương V. Đây là đổi mới quan trọng trong chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta để tiến tới BHXH cho mọi người lao động ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng đều có nghĩa vụ tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về chế độ BHXH đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy các chế độ BHXH bao gồm:
+ BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ : ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất.
+ BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ: hưu trí, tử tuất.
+ Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm.
Hiệu lực chung của Luật này là thi hành từ ngày 1/1/2007, thì BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2008 còn BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009. Luật này không áp dụng với BHYT, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh.
1.1.6 Quỹ Bảo hiểm xã hội.
1.1.6.1 : Khái niệm và đặc điểm quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố, rủi ro. Chủ thể của quỹ chính là những người tham gia đóng gó