1. Lý do chọn đề tài:
Khi nói về Thuế hẳn ai cũng biết rằng đây là khoản thu của nhà nước. Và trong sinh hoạt thường nhật, thông qua tiếp nhận các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, ở một góc độ nào đó chúng ta có nghe, có đọc, có nhận biết về Thuế. Còn tại sao lại có thuế, có từ khi nào và tại sao lại phải nộp thuế cho Nhà nước mà không phải một ai khác. Hoặc là trong rất nhiều sắc thuế đang áp dụng hiện nay như thuế GTGT, thuế TNDN, thuế XK, thuế NK, thuế TTĐB, thì tại sao Thuế GTGT lại được quan tâm nhiều hơn, thì không phải ai cũng có thể hiểu và giải thích một cách tường tận về Thuế GTGT.
Thực ra Thuế là một khoản thu bắt buộc của Nhà nước đối với các tổ chức và cá nhân trong xã hội và được nhà nước quy định bằng các đạo luật về thuế. Về xuất xứ, Thuế có mặt từ rất lâu và tồn tại song hành cùng với việc tồn tại thể chế chính trị cao nhất trong xã hội loài người, đó là Nhà nước. Khoản thu về thuế là một trong các nguồn thu chủ yếu tạo lập ngân sách của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc điều hành, quản lý và phát triển kinh tế xã hội.
Tùy thuộc vào tên gọi, nội dung và tính chất mà mỗi sắc Thuế có phạm vi, đối tượng điều chỉnh riêng biệt, chẳng hạn thuế XK (hoặc thuế NK) thì áp dụng đối với HH, DV xuất ra khỏi (hoặc nhập vào) một quốc gia; thuế GTGT thì áp dụng cho HH tiêu dùng ở trong nước, . Trong đó, thuế GTGT hiện đang áp dụng cho HH tiêu dùng ở nước ta là một sắc thuế đặc biệt, có phạm vi điều chỉnh rộng, mà đối tượng của nó là tất cả HH, DV tiêu dùng ở Việt Nam - tất nhiên cũng có trường hợp không phải nộp thuế nhưng rất ít và được quy định riêng.
Xét về tính chất thì đây là một sắc thuế tiên tiến và được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, và chính thức ban hành ở nước ta từ đầu năm 1999 đến nay.
Tuy nhiên, xét về mặt tương thích giữa việc thực thi sắc thuế này với trình độ phát triển của nền kinh tế thì còn những vấn đề cần phải giải quyết, nhất là đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ở đó là sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế, gồm có thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tập thể và cả bộ phận kinh tế nước ngoài hoạt động đan xen lẫn nhau. Mặt khác với một nền kinh tế đi lên chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên hộ KD cá thể vẫn còn chiếm số đông; mặt khác tâm lý thanh toán, giao dịch trong hoạt động mua bán phổ biến dùng tiền mặt, trình độ dân trí, ý thức chấp hành luật của người dân chưa cao, đã làm hạn chế rất nhiều ý nghĩa tích cực của sắc thuế này.
Do đó hệ thống chính sách thuế nước ta luôn được cải cách sửa đổi sao cho phù hợp với nền kinh tế và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đã khắc phục được nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu như: thu thuế trùng lắp, thuế thu trùng lên thuế, và được hoàn thuế GTGT trong trường hợp XK HH, DV , góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư và XK, tạo nguồn thu lớn và ổn dịnh cho NSNN, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh với hiệu quả ngày càng cao.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, cùng với việc tìm hiểu về hoạt động quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc - tỉnh Đồng Tháp, em đã chọn nội dung về "Thực trạng công tác quản lý và thu thuế GTGT tại Chi cục Thuế thị xã Sa Đéc" làm đề tài nghiên cứu cho việc hoàn thành chương trình học tập ở bậc Đại học hệ Tại chức của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Với mong muốn vừa là dịp để đánh giá lại kiến thức đã lĩnh hội được từ Nhà trường, đồng thời cũng góp phần nhỏ của mình cùng mọi người tham gia vào việc tìm hiểu, chấp hành, đóng góp để luật thuế GTGT không ngừng được hoàn thiện và phát huy tác dụng hơn nữa trong đời sống kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và địa phương thị xã Sa Đéc nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT, tình hình quản lý đối tượng nộp thuế, tình hình thực hiện kế hoạch thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Đối chiếu với cơ sở lý luận về thuế GTGT, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài này được thực hiện dựa vào số liệu từ hệ thống dữ liệu ngành thuế và một số văn bản hướng dẫn về thuế GTGT của ngành, vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và trao đổi với các cán bộ công chức của bộ phận chuyên môn trong cơ quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là công tác quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Tại Chi cục Thuế thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp.
Về thời gian: Đề tài này được thực hiện từ đầu năm 2008 đến hết năm 2010.
Số liệu phân tích: Số liệu từ đầu năm 2008 đến hết năm 2010.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thuế và thuế GTGT.
Chương 2: Thực trạng quản lý và thực hiện thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và thu thuế tại thị xã Sa Đéc.
62 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6247 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý và thu thuế GTGT tại Chi cục Thuế thị xã Sa Đéc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Khi nói về Thuế hẳn ai cũng biết rằng đây là khoản thu của nhà nước. Và trong sinh hoạt thường nhật, thông qua tiếp nhận các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, ở một góc độ nào đó chúng ta có nghe, có đọc, có nhận biết về Thuế. Còn tại sao lại có thuế, có từ khi nào và tại sao lại phải nộp thuế cho Nhà nước mà không phải một ai khác. Hoặc là trong rất nhiều sắc thuế đang áp dụng hiện nay như thuế GTGT, thuế TNDN, thuế XK, thuế NK, thuế TTĐB,… thì tại sao Thuế GTGT lại được quan tâm nhiều hơn, thì không phải ai cũng có thể hiểu và giải thích một cách tường tận về Thuế GTGT.
Thực ra Thuế là một khoản thu bắt buộc của Nhà nước đối với các tổ chức và cá nhân trong xã hội và được nhà nước quy định bằng các đạo luật về thuế. Về xuất xứ, Thuế có mặt từ rất lâu và tồn tại song hành cùng với việc tồn tại thể chế chính trị cao nhất trong xã hội loài người, đó là Nhà nước. Khoản thu về thuế là một trong các nguồn thu chủ yếu tạo lập ngân sách của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc điều hành, quản lý và phát triển kinh tế xã hội.
Tùy thuộc vào tên gọi, nội dung và tính chất mà mỗi sắc Thuế có phạm vi, đối tượng điều chỉnh riêng biệt, chẳng hạn thuế XK (hoặc thuế NK) thì áp dụng đối với HH, DV xuất ra khỏi (hoặc nhập vào) một quốc gia; thuế GTGT thì áp dụng cho HH tiêu dùng ở trong nước,… . Trong đó, thuế GTGT hiện đang áp dụng cho HH tiêu dùng ở nước ta là một sắc thuế đặc biệt, có phạm vi điều chỉnh rộng, mà đối tượng của nó là tất cả HH, DV tiêu dùng ở Việt Nam - tất nhiên cũng có trường hợp không phải nộp thuế nhưng rất ít và được quy định riêng.
Xét về tính chất thì đây là một sắc thuế tiên tiến và được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, và chính thức ban hành ở nước ta từ đầu năm 1999 đến nay.
Tuy nhiên, xét về mặt tương thích giữa việc thực thi sắc thuế này với trình độ phát triển của nền kinh tế thì còn những vấn đề cần phải giải quyết, nhất là đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ở đó là sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế, gồm có thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tập thể và cả bộ phận kinh tế nước ngoài hoạt động đan xen lẫn nhau. Mặt khác với một nền kinh tế đi lên chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên hộ KD cá thể vẫn còn chiếm số đông; mặt khác tâm lý thanh toán, giao dịch trong hoạt động mua bán phổ biến dùng tiền mặt, trình độ dân trí, ý thức chấp hành luật của người dân chưa cao,… đã làm hạn chế rất nhiều ý nghĩa tích cực của sắc thuế này.
Do đó hệ thống chính sách thuế nước ta luôn được cải cách sửa đổi sao cho phù hợp với nền kinh tế và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đã khắc phục được nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu như: thu thuế trùng lắp, thuế thu trùng lên thuế, và được hoàn thuế GTGT trong trường hợp XK HH, DV…, góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư và XK, tạo nguồn thu lớn và ổn dịnh cho NSNN, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh với hiệu quả ngày càng cao.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, cùng với việc tìm hiểu về hoạt động quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc - tỉnh Đồng Tháp, em đã chọn nội dung về "Thực trạng công tác quản lý và thu thuế GTGT tại Chi cục Thuế thị xã Sa Đéc" làm đề tài nghiên cứu cho việc hoàn thành chương trình học tập ở bậc Đại học hệ Tại chức của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Với mong muốn vừa là dịp để đánh giá lại kiến thức đã lĩnh hội được từ Nhà trường, đồng thời cũng góp phần nhỏ của mình cùng mọi người tham gia vào việc tìm hiểu, chấp hành, đóng góp để luật thuế GTGT không ngừng được hoàn thiện và phát huy tác dụng hơn nữa trong đời sống kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và địa phương thị xã Sa Đéc nói riêng.
Mục tiêu nghiên cứu:
v Phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT, tình hình quản lý đối tượng nộp thuế, tình hình thực hiện kế hoạch thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
v Đối chiếu với cơ sở lý luận về thuế GTGT, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài này được thực hiện dựa vào số liệu từ hệ thống dữ liệu ngành thuế và một số văn bản hướng dẫn về thuế GTGT của ngành, vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và trao đổi với các cán bộ công chức của bộ phận chuyên môn trong cơ quan.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
v Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là công tác quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp.
v Phạm vi nghiên cứu:
² Về không gian: Tại Chi cục Thuế thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp.
² Về thời gian: Đề tài này được thực hiện từ đầu năm 2008 đến hết năm 2010.
² Số liệu phân tích: Số liệu từ đầu năm 2008 đến hết năm 2010.
{ Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có kết cấu như sau:
² Chương 1: Cơ sở lý luận về thuế và thuế GTGT.
² Chương 2: Thực trạng quản lý và thực hiện thu thuế GTGT trên địa bàn thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
² Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và thu thuế tại thị xã Sa Đéc.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ THUẾ GTGT
TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ THUẾ GTGT:
KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, VAI TRÒ CỦA THUẾ:
Khái niệm về Thuế:
Có nhiều khái niệm về Thuế. Tuy nhiên, cho đến nay các khái niệm đều thừa nhận: thuế là một khoản nộp của các tổ chức và cá nhân cho nhà nước theo luật định, thuế gắn liền với sự tồn tại của nhà nước. Lịch sử phát triển của xã hội loài người, trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, đã chứng minh sự gắn liền giữa thuế và nhà nước. Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, thuế đã thay đổi và phát triển theo sự phát triển của các chức năng của nhà nước. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, thuế chỉ đơn thuần là công cụ tạo nguồn thu cho nhà nước; đến nền kinh tế hiện đại, thuế còn tham gia vào quá trình điều tiết nền kinh tế.
Chính sách thuế có tác dụng khuyến khích đầu tư; hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng trong nước; điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư; tác động đến giá cả thị trường và qua đó được nhà nước sử dụng để can thiệp vào những biến động của giá cả thị trường.
Bản chất của Thuế:
Thu thuế thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Trước hết là quan hệ phân phối thu nhập. Thu nhập từ các tổ chức và cá nhân, chuyển thành thu nhập của nhà nước, góp phần tạo lập quỹ ngân sách nhà nước.
Quá trình phân phối của nhà nước qua công cụ thuế nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước, suy cho cùng là quá trình nhà nước phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Như vậy có thể khái quát về bản chất của thuế như sau: thuế thể hiện quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội; phát sinh trong quá trình nhà nước - bằng quyền lực của mình – tham gia phân phối tổng sản phẩm quốc nội; nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước, đáp ứng chi tiêu của nhà nước.
Cơ sở chính trị - xã hội dẫn đến sự ra đời của thuế là quyền lực nhà nước; cơ sở kinh tế, mang ý nghĩa quyết định đến số thu thuế chính là sự tăng trưởng của nền kinh tế. Điều này yêu cầu nhà nước phải xây dựng chính sách thuế trong mối quan hệ với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cần đặc biệt lưu ý đến những tác động tích cực của thuế đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, trên cơ sở đó tạo khả năng cho việc tập trung nguồn thu nhiều hơn vào ngân sách nhà nước.
Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường:
¯ Huy động nguồn tài chính, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước:
Đây là vai trò mang tính lịch sử, gắn với sự ra đời của thuế và ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, khi sử dụng thuế để tạo lập thu nhập cho mình, nhà nước cũng nên chú trọng đến việc chi tiêu từ thuế, sao cho chi tiêu công từ thuế phải được sự đồng thuận của xã hội nói chung.
Để thực hiện tốt vai trò huy động nguồn tài chính, khi xây dựng chính sách thuế, phải đảm bảo các yêu cầu:
v Bao quát các nguồn thu có khả năng động viên cho ngân sách nhà nước, trên cơ sở xác định hợp lý tỷ lệ động viên so với GDP. Khi thực hiện yêu cầu này, cần lưu ý đến khả năng chịu thuế của người dân.
v Phải chú trọng đến khía cạnh công bằng trong điều tiết thu nhập, khi xây dựng và thực hiện chính sách thuế, từ đó thực hiện sự bình đẳng giữa tất cả các đối tượng chịu sự điều tiết thu nhập của thuế.
v Chính sách thuế, phải tác động tích cực đến các yếu tố giúp tăng trưởng nền kinh tế xã hội nói chung. Cần lưu ý đến các trường hợp ưu đãi về thuế suất hay miễn giảm; các trường hợp không chịu thuế; hình thức thuế suất thích hợp với yêu cầu của từng loại thuế. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển các hoạt động kinh doanh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã hoạch định.
¯Góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội:
Thuế không đơn thuần là công cụ tài chính nhằm huy động khoản thu cho nhà nước mà khi tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân, nhà nước đã trực tiếp gây ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội. Do đó chính sách thuế còn được nhà nước sử dụng như một công cụ góp phần điều tiết vĩ mô nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và thiết lập sự công bằng tương đối về xã hội. Cơ chế tác động của thuế khi thể hiện vai trò này, chủ yếu thông qua giá cả và thu nhập của cơ sở KD, các tầng lớp dân cư.
Có thể khái quát các biểu hiện của vai trò này như sau:
v Chính sách thuế góp phần định hướng cho đầu tư trong nước, thực hiện chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước như: thực hiện các ưu đãi, miễn giảm (áp dụng cho nhiều loại thuế) khi đầu tư mới theo vùng lãnh thổ hay ngành kinh tế. Từ đó góp phần vào việc tái cấu trúc nền kinh tế theo ngành và vùng lãnh thổ giúp phân bổ hợp lý các nguồn lực kinh tế - xã hội nói chung.
v Thông qua thuế suất, miễn giảm hay quy định về các trường hợp chịu thuế, không chịu thuế… chính sách thuế có thể khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh, góp phần vào việc xác lập quan hệ cân đối giữa cung - cầu hàng hoá, dịch vụ.
v Góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước trong từng thời kỳ, nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế khi gia nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu: những sửa đổi về thuế suất thuế XK - thuế NK (đặc biệt là việc xây dựng lộ trình giảm thuế NK); áp dụng thuế GTGT và thuế TTĐB (đối với hàng NK), giảm thuế TNDN để khuyến khích đầu tư, là minh chứng cụ thể.
v Chính sách thuế giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết công bằng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, vốn bị phân hóa khi phát triển nền kinh tế thị trường. Trước tiên, chính sách thuế xác lập sự công bằng về trách nhiệm, nghĩa vụ nộp thuế giữa các tổ chức và cá nhân. Mọi tổ chức và cá nhân đều thi hành nghĩa vụ nộp thuế, nếu thuộc diện nộp thuế; không có bất kỳ ưu đãi hay miễn trừ nào cho một hay nhiều tổ chức và cá nhân (xét theo thân nhân, địa vị, hoàn cảnh… ).
Công bằng trong huy động thu nhập từ người chịu thuế còn thể hiện qua mức động viên thuế so với thu nhập. Cụ thể là, thu nhập cao chịu thuế nhiều hơn so với thu nhập thấp và khi gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh hay trong đời sống, được miễn giảm thuế.
Tuy nhiên cần lưu ý, để thực hiện tốt chính sách công bằng trong điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, cần chú trọng đến chi tiêu từ NSNN. Đặc biệt là việc cung ứng miễn phí các HHDV công thiết yếu.
Phân loại thuế:
¯ Theo đối tượng của thuế:
Bằng cách phân loại này, hệ thống thuế có thể khái quát thành các loại:
v Thuế thu đối với thu nhập như: thuế TNDN, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất.
v Thuế thu đối với hàng hóa dịch vụ như: thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK – NK.
v Thuế thu đối với tài sản: thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên.
Cách phân loại này cho thấy phạm vi chi phối của thuế. Qua đó, có thể xây dựng chính sách thuế bao quát các nguồn thu có thể động viên cho NSNN.
¯ Theo phương thức huy động của thuế:
Thuế trực thu và thuế gián thu thể hiện cách phân loại này. Thuế trực thu động viên trực tiếp vào thu nhập, do đó tạo cảm giác rõ ràng và thường gặp phản ứng của đối tượng chịu thuế. Thuế gián thu là hành vi thu thuế tinh vi hơn của nhà nước. Khi nhu cầu tiêu dùng được thỏa mãn thì người chịu thuế không chú ý đến số thuế mình phải chịu. Trên thực tế, điều này thể hiện rõ đối với việc tiêu dùng các HH, DV liên quan đến thuế TTĐB, thuế NK.
Cách phân loại này giúp nhà nước xây dựng mối quan hệ hợp lý về tỷ trọng giữa hai phương thức huy động trong việc tập trung nguồn thu thuế cho NSNN. Thuế gián thu tạo điều kiện cho nhà nước tập trung thu nhập thuận lợi hơn. Mặt khác, với thuế suất hợp lý cùng các ưu đãi, miễn giảm, thuế trực thu góp phần đáng kể cho việc củng cố cơ sở kinh tế của thuế.
¯Theo tính chất của thuế:
Phụ thuộc vào mức độ động viên thuế so với thu nhập, thuế có tính lũy tiến hoặc lũy thoái. Thuế lũy tiến thiên về khía cạnh điều tiết công bằng thu nhập, chú trọng đến nhân thân, hoàn cảnh của đối tượng chịu thuế. Thuế lũy thoái nhằm mục tiêu tập trung số thuế cho ngân sách nhà nước do đó chưa thật sự công bằng trong điều tiết thu nhập của đối tượng chịu thuế.
Đối với thuế lũy thoái, người có thu nhập thấp, chịu gánh nặng về thuế nhiều hơn người có thu nhập cao; rõ rệt nhất khi tiêu dùng HH – DV thông thường. Khi sử dụng công cụ thuế, nhà nước phải chú trọng tính chất này, để có thể đạt được hai mục tiêu căn bản: vừa tập trung được số thu cần thiết, vừa đảm bảo điều tiết công bằng.
Ngoài các cách phân loại nêu trên, hệ thống thuế còn phân loại theo phân cấp quản lý thu thuế (thuế trung ương và thuế địa phương); theo mục lục NSNN.
TỔNG QUAN VỀ THUẾ GTGT:
Khái niệm về thuế GTGT:
Thuế GTGT là loại thuế gián thu dựa trên giá trị tăng thêm của HH, DV phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng HH, DV chịu. Thuế GTGT do NTD cuối cùng chịu, cơ sở SXKD, nhà cung cấp HHDV là NNT vào NSNN thay cho người tiêu dùng thông qua việc cộng thuế vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán khi mua HHDV.
Bản chất của thuế GTGT:
Thuế GTGT là loại thuế gián thu - một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ nhằm động viên một phần thu nhập của NTD khi họ tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế.
vThuế suất thuế GTGT được áp dụng thống nhất cho cùng một loại HH, DV từ khâu sản xuất cho đến khâu tiêu dùng cuối cùng. Phạm vi, đối tượng thu thuế rộng, nên với mức thuế suất không cao, ít mức thuế suất, nhưng vẫn đảm bảo được nguồn thu lớn cho NSNN.
v Thuế GTGT chỉ thu vào giá trị tăng thêm của HH, DV theo phân đoạn trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa từ khâu đầu tiên tới NTD, khi khép kín một chu kỳ. Đến cuối chu kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp DV; tổng số thuế thu được ở các phân đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá bán HH hoặc giá DV cho NTD cuối cùng. Do đó, thuế GTGT tránh được hiện tượng đánh thuế trùng lắp.
v Thuế GTGT có tính trung lập, vì về cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào việc khuyến khích hay hạn chế sản xuất, KD, không tạo nên sự phân biệt đối xử. Thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán của đối tượng cung cấp HHDV. Như vậy thuế GTGT đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng và khuyến khích phát triển nền kinh tế - xã hội nói chung.
v NTD cuối cùng phải gánh chịu toàn bộ phần thuế. Nếu sử dụng với mục đích tiếp tục tạo ra những sản phẩm, DV để bán ra; NTD sẽ được hoàn lại thuế GTGT của các yếu tố mua vào. Điều này khiến cho toàn bộ quy trình quản lý thuế, ngoài các cơ quan chức năng còn có các cơ sở kinh doanhvới tư cách là NTD, cũng tham gia tích cực.
v Thuế GTGT chỉ thu vào hoạt động tiêu dùng diễn ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, không thu vào hoạt động tiêu dùng diễn ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia đó. Do đó, thuế GTGT có tác động khuyến khích XK, góp phần tăng thu ngoại tệ.
Lịch sử ra đời và phát triển của thuế GTGT:
Thuế GTGT, theo tiếng Anh là VAT - Value Added Tax hoặc tiếng Pháp là TVA - Taxe sur la Valeur Ajoutée.
Năm 1918, khái niệm thuế GTGT được một người Đức tên là Cart Friedrich Von Siemns – là thành viên của gia đình sáng lập tập đoàn SIEMENS A-G, tập đoàn sản xuất hàng kim khí điện máy lớn nhất nước Đức lúc bấy giờ. Nhận thấy sự trùng lắp của thuế doanh thu, ông Cart Friedrich Von Siemns đã đưa ra khái niệm thuế GTGT và đề xuất Chính phủ Đức đưa vào áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu. Tuy nhiên, đề xuất của ông không được Chính phủ Đức áp dụng vì lo ngại sự phức tạp của thuế GTGT sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước Đức. Do đó, sáng kiến của Cart Friedrich Von Siemns phần nào đã bị lãng quên trong một khoảng thời gian dài.
Năm 1953, Nhật Bản đã nghiên cứu và đưa ra dự thảo bộ luật thuế GTGT nhưng dã không được Quốc Hội thông qua.
Ở Pháp, Maurice Laure’, giám đốc cơ quan thuế Pháp đã hoàn chỉnh đạo luật thuế GTGT. Ngày 10/04/1954, nước Pháp ban hành thuế GTGT và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/07/1954 nhưng chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp lớn. Tiền thân của thuế GTGT ở Pháp chính là thuế doanh thu (L’ impôt sur le chiffre d’ affaires). Nhằm khắc phục nhược đỉểm tính trùng lắp của thuế doanh thu, năm 1954 Pháp cho áp dụng thí điểm thu thuế GTGT trước mắt ở ngành sản xuất và thương nghiệp bán buôn. Sau đó thuế GTGT được mở rộng các ngành thương nghiệp bán lẻ, ngành công nghiệp thủ công và dịch vụ. Đến năm 1968, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung theo phương châm “đơn giản và hiện đại”, luật thuế GTGT được áp dụng ở Pháp cho tất cả các ngành nghề sản xuất, lưu thông HH và DV.
Do những ưu điểm vốn có của thuế GTGT so với các loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng, thuế GTGT sau đó được áp dụng phổ biến ở các nước Liên minh Châu Âu, châu Mỹ La tinh, Châu Phi và Châu Á.
Vai trò của thuế GTGT:
v Thuế GTGT tạo nên môi trường công bằng, qua đó góp phần thúc đẩy sản xuất; mở rộng lưu thông HH, DV.
Thuế doanh thu với sự trùng lắp đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và lưu thông HH. Trong khi đó, thuế GTGT lại có ưu điểm là chỉ thu vào phần GTGT của HH, DV qua các khâu từ quá trình sản xuất, lưu thông cho đến tiêu dùng, hoàn toàn không thu thuế trên toàn bộ doanh thu như mô hình thuế doanh thu. Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu không ảnh hưởng đến giá cả của các sản phẩm tiêu dùng, không gây ra khó khăn, trở ngại cho các khâu kinh doanh từ sản xuất đến lưu thông HH và tiêu dùng cuối cùng.
v Thuế GTGT không có hiện tượng thuế trùng thuế, giúp cho giá cả HH, DV được xác định hợp lý và chính xác hơn; góp phần ổn định giá cả, khuyến khích và thúc đẩy mở rộng quá trình sản xuất, lưu thông HH.
v Thuế GTGT động viên một phần thu nhập của NTD vào NSNN , góp phần hình thành khoản thu lớn và ổn định cho NSNN. Với phạm vi áp dụng rộng rãi trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực; đối tượng nộp thuế và chịu thuế đều dễ dàng chấp nhận; tính trung lập của thuế; các yếu tố trên tạo tiền đề để thuế GTGT thực hiện vai trò này một cách rõ rệt trên thực tế.
v Thuế GTGT áp dụng thuế suất 0% đối với hàng XK và được khấu trừ hoặc hoàn lại toàn bộ số thuế GTGT của các yếu tố mua vào nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh XK, tạo điều kiện cho HH XK có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
v Đối với hàng NK, thuế GTGT cùng với thuế NK làm tăng chi phí cho nhà NK. Nếu thuế NK là hàng rào thuế quan 01 bảo đảm mậu dịch thì thuế GTGT ở khâu NK cũng có thể xem là hàng rào thuế quan thứ 02 (nhất là khi thực hiện các cam kết cắt giảm thuế NK) góp phần bảo hộ mậu dịch dù mức độ bảo hộ có thấp hơn thuế nhập khẩu.
v Thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán, kế toán; thúc đẩy việc mua, bán HH có hóa đơn, chứng từ và thanh toán qua ngân hàng vì việc tính thuế đầu ra, khấu trừ thuế GTGT đầu vào quy định rõ phải căn cứ trên hóa đơn mua vào, bán ra.
Ưu điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu:
v Khắc phục được tính trùng lắp của thuế doanh thu. Bởi lẽ, khi tính thuế GTGT ở mỗi giai đoạn của quy trình sản xuất, KD sẽ được khấu trừ số thuế GTGT ở giai đoạn trước. Trong khi đó, t