Đề tài Thực trạng của lạm phát và hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010

Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách kinh tế. Nói đến lạm phát là một vấn đề cũ thì không có gì sai cả,bởi vì từ xưa đến nay, có rất nhiều nhà kinh tế đã gián tiếp hay trực tiếp đề cập đến nó, trong đó có những nhà trí tuệ vĩ đại như Các Mác. Fisher, Friedman. Song lạm phát lúc nào cũng là vấn đề mới cả, nó nóng bỏng đến từng ngày, từng giờ,nó thay đổi liên tục, có khi tạm ổn định, có khi giảm xuống, lại có khi lên cơn sốt một cách đột ngột. Cho nên bàn về lạm phát trong giai đoạn hiện nay tưởng chừng như quá muộn nhưng lại chưa trễ tí nào bởi vì trong mọi thời kì, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thì lạm phát lại có những sắc thái riêng, những biến động mang hương vị đặc trưng của mình và rồi để lại những âm hưởng khá lâu dài trong nền kinh tế. Một vấn đề mà chúng ta ai cũng nhận ra rằng, chẳng riêng gì các siêu cường kinh tế như Mỹ, Nhật,. mà với mọi quốc gia trên thế giới, lạm phát như là bóng ma cứ luôn ám ảnh làm chao đảo cho nền kinh tế và nỗi kinh hoàng cho mọi người. Ở Việt Nam cũng vậy, người dân vừa hứng chịu những hậu quả nặng nề của các đợt lạm phát vừa qua, tuy đã dịu đi một chút, nhưng vẫn để lại những dấu ấn trong lòng mỗi người một nỗi lo sợ rằng lạm phát sẽ bùng lên giống như những vết thương vừa khép miệng trong khi vẫn còn đang nhức nhối. Song vấn đề đặt ra là nếu lạm phát thấp thì tăng trưởng chậm, còn lạm phát cao thì chứa đựng các mầm mống có khả năng đe dọa đến tiến trình phát triển bền vững của nền kinh tế, chính vì vậy, cái khó mà mọi quốc gia hiện nay đang phải đối mặt là duy trì mức lạm phát như thế nào là hợp lý nhất ? Trong khi đó, để tránh khỏi tình trạng tụt hậu, Việt Nam phải duy trì tỷ lệ tăng trưởng xấp xỉ 10% trong vòng 20 năm tới. Mục tiêu tăng trưởng và vấn đề kiềm chế lạm phát luôn là một bài toán khó mà các cấp lãnh đạo và toàn thể nhân dân Việt Nam đang phải thật cố gắng để tìm lời giải cho nó? Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt thì để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên “thương trường”, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề kinh tế mới. Và một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan, là vấn đề của mọi thời đại, mọi nền kinh tế thị trường.Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế thị trường thì còn lạm phát. Người ta chỉ có thể kiềm chế lạm phát ở một mức độ sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế mà ít gây ảnh hưởng, tác hại. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế cũng như xã hội là rất lớn. Mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi tranh luận đặt ra: bản chất của lạm phát là gì? Các hình thức biểu hiện của nó ra sao? Nó có tác động nghiêm trọng như thế nào đối với nền kinh tế? Thực trạng của vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay đang diễn biến như thế nào? Chúng ta phải làm gì để điều tiết nền kinh tế và kiềm chế lạm phát? Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát ra sao? Xuất phát từ yêu cầu thực tế cần thiết và cấp bách đó, cho thấy đề tài “Thực trạng của lạm phát và hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010” là cần thiết. Với tầm quan trọng và mang tính thời sự nóng bỏng của vấn đề, chúng em tin rằng đề tài sẽ có giá trị thực tiễn rất cao.

doc52 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2844 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của lạm phát và hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC ÐÑÐÑÐÑ BÀI TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG CỦA LẠM PHÁT VÀ HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2010 Thành viên nghiên cứu Phan Dương Hùng Vĩ TM04 Hà Sỹ Nghị TM04 Nguyễn Thị Thanh An TM03 Nguyễn Thị Linh Nga TM03 Hứa Thị Mi TM03 Mục lục Trang Chương 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách kinh tế. Nói đến lạm phát là một vấn đề cũ thì không có gì sai cả,bởi vì từ xưa đến nay, có rất nhiều nhà kinh tế đã gián tiếp hay trực tiếp đề cập đến nó, trong đó có những nhà trí tuệ vĩ đại như Các Mác. Fisher, Friedman... Song lạm phát lúc nào cũng là vấn đề mới cả, nó nóng bỏng đến từng ngày, từng giờ,nó thay đổi liên tục, có khi tạm ổn định, có khi giảm xuống, lại có khi lên cơn sốt một cách đột ngột. Cho nên bàn về lạm phát trong giai đoạn hiện nay tưởng chừng như quá muộn nhưng lại chưa trễ tí nào bởi vì trong mọi thời kì, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thì lạm phát lại có những sắc thái riêng, những biến động mang hương vị đặc trưng của mình và rồi để lại những âm hưởng khá lâu dài trong nền kinh tế. Một vấn đề mà chúng ta ai cũng nhận ra rằng, chẳng riêng gì các siêu cường kinh tế như Mỹ, Nhật,... mà với mọi quốc gia trên thế giới, lạm phát như là bóng ma cứ luôn ám ảnh làm chao đảo cho nền kinh tế và nỗi kinh hoàng cho mọi người. Ở Việt Nam cũng vậy, người dân vừa hứng chịu những hậu quả nặng nề của các đợt lạm phát vừa qua, tuy đã dịu đi một chút, nhưng vẫn để lại những dấu ấn trong lòng mỗi người một nỗi lo sợ rằng lạm phát sẽ bùng lên giống như những vết thương vừa khép miệng trong khi vẫn còn đang nhức nhối. Song vấn đề đặt ra là nếu lạm phát thấp thì tăng trưởng chậm, còn lạm phát cao thì chứa đựng các mầm mống có khả năng đe dọa đến tiến trình phát triển bền vững của nền kinh tế, chính vì vậy, cái khó mà mọi quốc gia hiện nay đang phải đối mặt là duy trì mức lạm phát như thế nào là hợp lý nhất ? Trong khi đó, để tránh khỏi tình trạng tụt hậu, Việt Nam phải duy trì tỷ lệ tăng trưởng xấp xỉ 10% trong vòng 20 năm tới. Mục tiêu tăng trưởng và vấn đề kiềm chế lạm phát luôn là một bài toán khó mà các cấp lãnh đạo và toàn thể nhân dân Việt Nam đang phải thật cố gắng để tìm lời giải cho nó? Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt thì để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên “thương trường”, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề kinh tế mới. Và một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan, là vấn đề của mọi thời đại, mọi nền kinh tế thị trường.Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế thị trường thì còn lạm phát. Người ta chỉ có thể kiềm chế lạm phát ở một mức độ sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế mà ít gây ảnh hưởng, tác hại. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế cũng như xã hội là rất lớn. Mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi tranh luận đặt ra: bản chất của lạm phát là gì? Các hình thức biểu hiện của nó ra sao? Nó có tác động nghiêm trọng như thế nào đối với nền kinh tế? Thực trạng của vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay đang diễn biến như thế nào? Chúng ta phải làm gì để điều tiết nền kinh tế và kiềm chế lạm phát? Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát ra sao? Xuất phát từ yêu cầu thực tế cần thiết và cấp bách đó, cho thấy đề tài “Thực trạng của lạm phát và hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010” là cần thiết. Với tầm quan trọng và mang tính thời sự nóng bỏng của vấn đề, chúng em tin rằng đề tài sẽ có giá trị thực tiễn rất cao. 2. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng lạm phát của Việt Nam trong các giai đoạn vừa qua, trên cơ sở đó đánh giá các biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ, cuối cùng là nhận định và đưa ra ý kiến của nhóm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Xuất phát từ lý do trên, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về các vấn đề sau: Thứ nhất, tìm hiểu một số lý luận chung về lạm phát như khái niệm, nguyên nhân, phân loại, các tác động và các mối quan hệ của lạm phát ... Thứ hai, khái quát lại thực trạng của lạm phát của Việt Nam từ năm 1986 – 2010. Thứ ba, trên cơ sở diễn biến tình hình lạm phát đưa ra nguyên nhân ở từng giai đoạn, các giải pháp kiềm chế, đồng thời, xem xét hiệu quả của chính sách kiềm chế tác động đến nền kinh tế như thế nào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng lạm phát và hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010. 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Thu thập số liệu Tham khảo các tài liệu, đề tài nghiên cứu trước đó,các luận văn của các Thạc sỹ kinh tế, từ sách báo, đặc biệt là từ Internet… về cơ sở lý luận của lạm phát và thực trạng lạm phát và hiệu quả của chính sách kiểm soát lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010 4.2. Phân tích số liệu Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh và đánh giá về những vấn đề chung của lạm phát: Phương pháp tổng hợp: sau khi thu thập những thông tin có liên quan đến lạm phát là giai đoạn tổng hợp lại những thông tin cần thiết để tiến hành phân tích. Phương pháp phân tích: từ những số liệu đã tổng hợp được bắt đầu phân tích những số liệu đó xem ý nghĩa của những số liệu đó như thế nào. Phương pháp so sánh: sử dụng biểu đồ để so sánh các số liệu thu thập được Phương pháp đánh giá: sau khi phân tích và so sánh, tiến hành đánh giá xem mức độ lạm phát ở mỗi giai đoạn có tác động như thế nào đến nền kinh tế 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Từ việc nghiên cứu các giai đoạn lạm phát trong lịch sử đến hiện nay để có cái nhìn tổng quát hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó đánh giá hiệu quả của các chính sách mà chính phủ đã đưa ra để từ đó đưa ra những đề xuất để có thể đối phó với tình hình phức tạp mà hiện nay lạm phát gây ra. Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm. 1.1. Một số vấn đề về lạm phát: 1.1.1. Thế nào là lạm phát? Lạm phát dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hóa, dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó trong một thời gian nhất định. Tức là khi giá trị của hàng hóa dịch vụ tăng lên đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi cùng với một số tiền nhất định. Có thể nói lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá. Nói một cách cụ thể hơn , lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ. Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách ...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ thay đổi mức giá chung và được tính theo công thức: Mức giá t – Mức giá t-1 x 100 Tỷ lệ lạm phát (năm t) = Mức giá t - 1 1.1.2. Đo lường lạm phát  bằng cách nào ? Mức giá chung của nền kinh tế được nhìn nhận theo 2 cách. Chúng ta coi mức giá là giá của một giỏ hàng hóa và dịch vụ. Khi mức giá tăng mọi người phải trả nhiều tiền hơn cho những hàng hóa dịch vụ mà họ mua. Chúng ta có thể coi mức giá cũng như là giá trị của tiền. Sự gia tăng mức giá có nghĩa là giá trị của tiền giảm bởi vì mỗi đồng tiền bỏ ra lúc này mua được ít hàng hóa hơn trước. Mức giá chung được tính bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số điều chỉnh (GDP). Chỉ số giá bao gồm một số loại như sau: Chỉ số giá bán lẻ - CPI – Consumer Price Index Chỉ số giá bán buôn – WPI - Wholesale Price Index Chỉ số giá sản xuất – PPI – Producer Price Index,... Nhưng thông thường thì người ta dùng chỉ số giá bán lẻ (CPI) để đo lường mức độ lạm phát. CPI đựơc tính theo công thức: x 100 CPI = Nếu nền kinh tế năm nay có lạm phát 10%/năm tức là mức giá cả chung trong nền kinh tế tăng lên 10% so với năm trước đó. Điều đó không có nghĩa là giá cả của tất cả các hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ là 10%, mà những hàng hóa khác nhau sẽ có những tỷ lệ tăng khác nhau và thậm chí có mặt hàng giá giảm hoặc giá không đổi. 1.2. Thế nào là giảm phát ? Khái niệm giảm phát được hiểu ngược với khái niệm lạm phát, tức là hiện tượng mức giá cả chung trong nền kinh tế giảm xuống. Cũng tương tự như lạm phát, giảm phát nhưng cũng không có nghĩa là tất cả các mặt hàng đều giảm theo cùng một tỷ lệ, mà những mặt hàng khác nhau sẽ có những tỷ lệ thay đổi khác nhau. 1.3. Thế nào là giảm lạm phát? Giảm lạm phát, mô tả hay nói lên tình hình lạm phát được thay đổi theo chiều hướng giảm xuống. Giảm lạm phát chẳng phải là một thuật ngữ hay một khái niệm gì cả, mà từ “giảm” ở đây chỉ hiểu đơn giản là sự thay đổi về mặt số lượng theo chiều hướng nhỏ hơn do đó nó tương tự như mọi cái giảm khác, như giảm chơi bời, giảm nhậu, giảm vào Net chẳng hạn. è Để phân biệt chúng, chúng em lấy ví dụ như thế này cho nó dễ hiểu. Nếu coi chỉ số giá là vận tốc của chiếc xe thì khi xe chạy - tức là vận tốc dương - lạm phát; khi xe chạy lùi - vận tốc âm - giảm phát; còn khi xe đang chạy mà rà thắng để giảm vận tốc từ từ là giảm lạm phát. 2. Phân loại lạm phát. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính. Về mặt định lượng: lạm phát thể hiện những mức đô nghiêm trong khác nhau và dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong năm, phân theo cách này thì lạm phát có các loại sau: Lạm phát vừa phải – Mild inflation : được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán được. Là loại lạm phát ở mức một con số - dưới 10%/năm. Khi giá tương đói ổn định, mọi người tin tưởng vào đồng tiền, họ sẵn sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ nguyên giá trị trong vòng một tháng hay một năm. Mọi người sẵn sàng làm những hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền vì họ tin rằng giá trị và chi phí của họ mua và bán sẽ không chênh lệch quá xa.Loại lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả năng tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Lạm phát phi mã – Galloping inflation :Là loại lạm phát ở mức hai đến ba con số ( tỷ lệ tăng giá trên 10% đến <100%), từ 10% 100% 900% ... một năm. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ tiền mặt, mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu cần thiết cho việc thanh toán hằng ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ. Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài). Loại lạm phát này tác động tiêu cực đến nền kinh tế, với những hậu quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trong nước. Siêu lạm phát – Hyper inflation : Là loại lạm phát 4 con số, tỳ lệ tăng giá từ 1000 %/năm trở lên. Đồng tiền gần như mất giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền không còn làm được chức năng trao đổi. Đây thực sự là một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ, đạt cực điểm lên đến 10.000.000.000%, Hungary sau Thế chiến II với tỉ lệ lạm phát 4.19 x 1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ), Zimbabue, Colombia…. Về mặt định tính: Lạm phát được chia làm thành nhiều loại khác nhau, tùy theo tính chất của lạm phát mà người ta chia ra các loại cơ bản sau: Lạm phát thuần túy – Pure Inflation : Đây là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian. Lạm phát cân bằng – Balanced inflation: Là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với mức tăng thu nhập. Lạm phát được dự đoán trước – Predicted inflation: Là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm. Lạm phát không được dự đoán trước – Non Predicted inflation: Là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động. Lạm phát cao và lạm phát thấp – High inflation and Low inflation: Theo quan điểm của Gary Smith thì lạm phát cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập tăng thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng tăng cao hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát. 3. Nguyên nhân của lạm phát. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, Phân loại theo nguyên nhân của lạm phát chúng ta có các loại lạm phát sau: Lạm phát do cầu kéo – Demand pull inflation : Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng nhưng tổng cung không đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng tăng không bằng tổng cầu. Để khắc phục, chính phủ phải thực hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, tăng thuế hoặc giảm cung tiền. Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát do cầu kéo được giải thích bằng mô hình sau: SAS AD1 AD0 P P P 0 Yp Y1 Y LAS Hình 1: Lạm phát do cầu kéo Chúng ta bắt đầu với trạng thái cân bằng ban đầu trong dài hạn, tại đó đường LAS cắt đường SAS và AD0 ở mức giá P0. Sự gia tăng tổng cầu từ AD0 đến AD1 làm mức giá tăng từ P0 lên P1 và GDP thực tăng từ Yp đến Y1 Lạm phát do chi phí đẩy – Cost push inflation: Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng giá. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn; thiên tai, mất mùa, lụt bão, động đất… làm giảm năng lực sản xuất; khủng hoảng ngành dầu mỏ do các liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh vùng vịnh làm tăng giá, giá dầu tăng làm tăng chi phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán tăng - tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá bán tăng, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất hoặc sa thải nhân công. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc này là vừa có lạm phát lại vừa bị suy thoái, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao. Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất dầu mở dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát do chi phí đẩy thì dù bất kỳ mức độ nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang trong mình sự suy thoái kinh tế. Do vậy nó còn được gọi là lạm phát đình truệ. → Về việc khi nền Kinh tế xảy ra cùng lúc 2 nguyên nhân gây ra lạm phát, lạm phát cầu kéo & lạm phát chi phí đẩy: Trong thực tế 2 loại lạm phát có thể xảy ra cùng 1 lúc. Nếu đường cầu dịch chuyển sang phải kết hợp đường cung dịch sang trái hay lên trên thì giá tăng, sản lượng có thể, giảm hoặc không đổi tùy theo mức độ dịch chuyển của 2 đường. Đối với lạm phát do cầu kéo, ta kiềm chế lại bằng cách CP rút tiền bớt ra khỏi nên Kinh tế, NHTƯ giảm lượng cung tiền (MS), CP giảm chi tiêu (giảm G). Còn loại lạm phát do chi phí đẩy, CP kiềm chế bằng cách áp dụng CS tài khóa và tiền tệ mở rộng nhằm đưa sản lượng nên Kinh tế về mức sản lượng tiềm năng (YP). Còn tùy trường hợp cụ thể, bằng cách xem xét tổng thể nền Kinh tế bị loại lạm phát nào nặng hơn để đưa ra CS kiềm chế lạm phát thích hợp nhất. Y* P P P 0 Y LAS SAS1 SAS0 Hình 2: Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát này nảy sinh từ đó. Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát. Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng do: NHTƯ mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ. NHTƯ mua công trái theo yêu cầu của nhà nước Quản lý tiền mặt kém hiệu quả Chi tiêu ngân sách ngày càng lớn Sức hút của thị trường chứng khoán Tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả của thị trường tăng cao ( mua vàng hay ngoại tệ dự trữ….) Tất cả nguyên nhân trên làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên gây ra lạm phát. Lạm phát đẻ ra lạm phát: khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung gây ra lạm phát. 4. Tác động của lạm phát. 4.1. Tác động tiêu cực. 4.1.1. Lạm phát dự kiến được Chi phí mòn giày: vì lạm phát làm xói mòn giá trị thực tế mà chúng ta nắm giữ nên để tránh sự mất giá của đồng tiền mọi người sẽ giữ ít tiền trong ví của mình hơn và một trong những cách để thực hiện điều đó là đến ngân hàng thường xuyên hơn, tức là gửi tài sản dưới dạng tiền gởi ngân hàng. Chi phí bỏ ra để giảm lượng tiền nắm giữ được gọi là chi phí mòn giày của lạm phát. Vì chúng ta có thể đến ngân hàng thường xuyên hơn, nên giày chúng ta mòn nhanh hơn, bên cạnh đó chúng ta phải mất đi thời gian và sự tiện lợi để ít giữ tiền hơn , cái mà chúng ta không phải trả khi lạm phát.Chi phí mòn giày tương đối nhỏ so với quốc gia có lạm phát vừa phải. Chi phí mòn giày rât lớn đối với quốc gia siêu lạm phát. Chi phí thực đơn: hầu hết các doanh nghiệp không thay đổi giá hàng ngày, mà thường thông báo giá và giữ ổn định trong khoảng thời gian vài tuần, vài tháng, năm. Các doanh nghiệp không thường xuyên thay đổi giá vì họ phải chịu chi phí khi đổi giá. Chi phí cho việc đổi giá gọi là chi phí thực đơn, một thuật ngữ rút ra từ chi phí in thực đơn mới của các nhà hàng. Chi phí thực đơn bao gồm các chi phí quyết định giá mới, chi phí gởi bản giá và catalo mới cho đối tác và khách hàng, chi phí quảng cáo giá mới và thậm chí cả chi phí giải thích cho khách hàng tại sao có sự thay đổi giá.Lạm phát làm tăng chi phí thực đơn mà doanh nghiệp phải chịu. Khi lạm phát cao, chi phí doanh nghiệp tăng rất nhanh do sự thay đổi giá nhiều lần trong kỳ. Sự biến động của giá tương đối và phân bổ sai nguồn lực, các nền kinh tế thị trường thường dựa vào giá tương đối để phân bổ nguồn lực. Người tiêu dùng quyết định mua hàng hóa bằng cách so sánh chất lượng và giá cả của hàng hóa đó và dịch vụ khác nhau. Thông qua những quyết định này, họ quyết định phân bổ các nhân tố sản xuất khan hiếm cho các nghành và doanh nghiệp. Khi lạm phát cao thì sự thay đổi tự động trong giá tương đối càng lớn, các quyết định của khách hàng bị biến dạng và thị trường mất khả năng phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả. Những biến dạng của thuế do lạm phát gây ra: các nhà lập pháp thường không tính đến lạm phát khi soạn thảo các luật thuế. Các nhà kinh tế đã nghiên cứu các luật thuế và kết luận rằng lạm phát có xu hướng làm tăng gánh nặng thuế đánh vào các khoản thu nhập thu được từ tiết kiệm. Thuế thu nhập đánh vào lãi suất danh nghĩa thu được từ những khoản tiết kiệm, mặc
Luận văn liên quan