Trong điều kiện hiện nay,sự phát triển của khoa học công nghệ và tiến trình hội nhập, hình thức tổ chức thị trường và phương thức hoạt động thương mại đã thay đổi, hoạt động giao tiếp giữa các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng và mang tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển của các liên kết kinh tế thương mại trong phạm vi khu vực, tiểu khu vực và của các công ty xuyên quốc gia trong các thập kỉ qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình và tầm quan trọng kinh tế - xã hội và chính trị của nó được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây.
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho thấy rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.Thương mại quốc tế ngày nay đã không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Trong những năm qua, Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam trong thời gian qua để thấy được điều này.
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 14572 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Đề tài: Thực trạng hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay,sự phát triển của khoa học công nghệ và tiến trình hội nhập, hình thức tổ chức thị trường và phương thức hoạt động thương mại đã thay đổi, hoạt động giao tiếp giữa các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng và mang tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển của các liên kết kinh tế thương mại trong phạm vi khu vực, tiểu khu vực và của các công ty xuyên quốc gia trong các thập kỉ qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động kinh tế thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình và tầm quan trọng kinh tế - xã hội và chính trị của nó được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây.
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã cho thấy rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.Thương mại quốc tế ngày nay đã không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Trong những năm qua, Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam trong thời gian qua để thấy được điều này.
Nội dung trình bày gồm có:
Chương 1: Cơ sở lí luận về thương mại quốc tế của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thương mại quốc tế của Việt Nam
2.1 Thực trạng
2.2 Đánh giá
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế đối với Việt Nam hiện nay
Chương 1: Cơ sở lí luận về thương mại quốc tế của Việt Nam
Không thể phủ nhận vai trò cần thiết của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế của các nước hiện nay. Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý nghĩa sống còn đối với các nước tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và chủng loại phong phú hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất trong điều kiện đóng cửa nền kinh tế của nước đó. Hay nói cách khác, thương mại quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Bên cạnh đó, nó cũng cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế, cơ cấu vật chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản suất của mình hơn.
Cụ thể: Thương mại quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa, dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với nước ngoài. Mà trong quá trình tái sản xuất mở rộng thì khâu phân phối và lưu thông này được coi là khâu quan trọng, khâu có vai trò quyết đinh tới tiến trình sản xuất. Sản xuất có phát triển được hay không, phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Chính vì vậy có thể khẳng định thương mại quốc tế tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất.
Thương mại quốc tế giúp các nước nghèo nâng cao tốc độ tăng trưởng và giảm nghèo, tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận nguồn vốn của các nước giàu thông qua trao đổi các yếu tố sản xuất giữa các nước.Thương mại quốc tế còn giúp cân bằng các yếu tố sản xuất, phân phối thu nhập giữa các yếu tố sản xuất ở nước nghèo sẽ bị điều chỉnh phù hợp với phân phối thu nhập ở các nước giàu. Thương mại quốc tế giúp các nước đạt mục tiêu tăng trưởng thông qua khuyến khích lợi ích kinh tế trực tiếp.
1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên.
Thương mại quốc tế thường được nghiên cứu dưới ba góc độ :
- Quan điểm toàn cầu: tìm ra những quy luật, xu hướng, vấn đề mang tính chất chung nhất trên thế giới, không phụ thuộc vào lợi ích của từng quốc gia.
- Đứng trên lợi ích và quan điểm của từng quốc gia để xem xét hoạt động buôn bán chủ yếu của quốc gia đó đối với phần còn lại của thế giới.
- Gắn với hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty nhằm mục đích thu lợi nhuận cao nhất cho công ty.
2. Nội dung
- Xuất nhập khẩu hàng hoá-dịch vụ: nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, lương thực thực phẩm...
- Gia công quốc tế: khi trình độ phát triển còn thấp thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì cần phải chú trọng các hoạt động thuê gia công nước ngoài nhưng khi trình độ phát triển càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình và cao hơn nữa là phải sản xuất và xuất khẩu trực tiếp.
- Tái xuất khẩu: tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào sau đó tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba với điều kiện hàng hóa không qua gia công và chế biến.Mức độ rủi ro lớn.
- Chuyển khẩu: không có hành vi mua bán mà ở đay chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi... Mức độ rủi ro thấp và lợi nhuận cũng cao.
- Xuất khẩu tại chỗ: đó là việc cung cấp dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế, có thể hiệu quả cao.
3. Chức năng
Thương mại quốc tế có hai chức năng cơ bản sau đây:
Một là : Làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm và thu nhập quốc dân trong nước thông qua việc xuất nhập khẩu nhằm đạt tới tối ưu.
Hai là: Góp phần nâng cao hiệu qủa của nền kinh tế quốc dân do việc mở rộng trao đổi trên cơ sở khai thác triệt để của nền kinh tế trong nước trong phân công lao động quốc tế.
4. Đặc điểm
Gồm 7 đặc điểm cơ bản sau:
1. Thương mại quốc tế có xu hướng tăng nhanh, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất.
2. Tốc độ tăng trưởng của thương mại “vô hình” tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của thương mại “hữu hình”.
3. Cơ cấu hàng hoá trong thương mại quốc tế có sự thay đổi sâu sắc với các xu hướng chính sau :
- Giảm đáng kể tỷ trọng nhóm hàng lương thực, thực phẩm và đồ uống.
- Giảm mạnh tỷ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng dầu mỏ và khí đốt.
- Giảm tỷ trọng hàng thô, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm công nghiệp chế tạo.
- Giảm tỷ trọng những mặt hàng có hàm lượng lao động giản đơn, tăng nhanh những mặt hàng kết tinh có hàm lượng lao động thành thạo phức tạp.
4. Tỷ trọng buôn bán những mặt hàng chứa đựng hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao tăng nhanh.
5. Nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau.
6. Chu kì sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, công nghệ, mẫu mã diễn ra một cách liên tục.
7. Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do hoá thương mại, mặt khác các hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi hơn.
Chương 2: Thực trạng thương mại quốc tế của Việt Nam
2.1 Thực trạng
Hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trong thập kỉ 21 này dược so sánh là có những khác biệt rất lớn so với 2 thập kỉ về trước.Các doanh nghiệp hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau và chịu sức ép của cạnh tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi
Tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam chịu ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập. Thương mại và đầu tư ở Việt Nam đã phát triển từ cơ chế tương đối hạn chế sang cơ chế mở như hiện nay. Những kết quả đạt được về mặt kinh tế là rất ấn tượng:
• Tỷ trọng xuất khẩu (và nhập khẩu) trong nền kinh tế tăng gấp 10 lần từ 1988 đến 2008
• Thu nhập đầu người tăng từ $130 vào đầu thập kỷ 90 lên $800 vào 2008; và
• Tỷ lệ nghèo đói giảm đáng kể từ 58% năm 1993 xuống 13% năm 2008
Thương mại Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước tiến rất đáng khích lệ. Người tiêu dùng có thể thỏa mãn nhu cầu thông qua các “kênh” với nhiều “cấp độ” khác nhau: 40% qua chợ, 44% qua các cửa hàng độc lập và cửa hàng của doanh nghiệp, 16% qua hệ thống phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị). Từ chỗ chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay cả nước có trên 200 siêu thị, 50 trung tâm thương mại, gần 1.000 cửa hàng
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng (KNXK) hóa được xếp vào mức cao nhất khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân 24% năm 1991, đến năm 2007 xuất khẩu đã chiếm 64,9 % – đứng thứ 5 so với các nước trong khu vực Đông – Nam Á, thứ 6 ở châu Á, thứ 8 trên thế giới. Nếu như tổng KNXK của Việt Nam năm 2000 chỉ đạt xấp xỉ 14,5 tỉ USD thì năm 2007 đã tăng gấp 2,7 lần đạt trên 39 tỉ USD, đứng thứ 6/11 trong khu vực Đông – Nam Á, 39/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; KNXK hàng hóa bình quân đầu người gấp 2,5 lần so với năm 2000, tăng 20,7% so với năm 2005, đứng thứ 6 trong khu vực, thứ 25 ở châu Á, thứ 92 trên thế giới.Tỷ trọng KNXK vào thị trường châu Mỹ tăng đều trong 3 năm qua, từ 21,3% năm 2004 tăng lên 23,2% năm 2007. Thị trường Hoa Kỳ vẫn là đối tác chính của Việt Nam về xuất khẩu với kim ngạch 8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng 86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2% trong tổng KNXK hàng hóa sang thị trường châu Mỹ.Trong khi đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu giày dép nhưng thị trường châu Âu vẫn duy trì được tỷ trọng 19% – 20% trong tổng KNXK của cả nước từ năm 2004 đến nay. Các nước EU chiếm tỷ trọng 89,2% KNXK hàng hóa sang thị trường châu Âu (6,81 tỉ USD), tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2005.
Trong năm 2010, có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (Năm 2009 có 12 mặt hàng), trong đó kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực tăng cao so với năm 2009 như: Hàng dệt may đạt 11,2 tỷ USD, tăng 23,2%; giày dép đạt 5,1 tỷ USD, tăng 24,9%; thủy sản 4,9 tỷ USD, tăng 16,5%; hàng điện tử máy tính 3,6 tỷ USD, tăng 28,8%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,4 tỷ USD, tăng 31,2%; gạo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 20,6; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 3 tỷ USD, tăng 48%; cao su 2,4 tỷ USD, tăng 93,7%.
Nhìn chung xuất khẩu hàng hóa năm 2010 có nhiều thuận lợi do đơn giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, trong đó giá sắn và sản phẩm sắn tăng 90,7%; cao su tăng 81%; hạt tiêu tăng 39,7%; hạt điều tăng 22,4%; than đá tăng 52,9%; dầu thô tăng 33,7%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2010 ước tính đạt 64,5 tỷ USD, tăng 13,4% so với năm 2009.Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2010 có sự thay đổi ở một số nhóm hàng so với năm trước, trong đó nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống 27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm vàng giảm từ 4,6% xuống 4%.
Tính chung năm 2010, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 47,5 tỷ USD, tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,5 tỷ USD, tăng 39,9%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao là: Xăng dầu tăng 225,2%; lúa mỳ tăng 70,4%; kim loại thường khác tăng 57,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép tăng 36%; chất dẻo tăng 33,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 30,7%; vải tăng 27,2%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 22,4%; sắt thép tăng 15%. Nhập khẩu ôtô nguyên chiếc giảm 24,4% về kim ngạch và giảm 34,1% về lượng so với năm 2009.
Trong năm 2011, có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD[2] là: Dệt may 14 tỷ USD, tăng 25,1% so với năm 2010; dầu thô 7,2 tỷ USD, tăng 45,9%; điện thoại các loại và linh kiện 6,9 tỷ USD, tăng 197,3%; giày dép 6,5 tỷ USD, tăng 27,3%; thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng 21,7%; điện tử máy tính 4,2 tỷ USD, tăng 16,9% ; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 4,1 tỷ USD, tăng 34,5%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ USD, tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao su 3,2 tỷ USD, tăng 35%; cà phê 2,7 tỷ USD, tăng 48,1%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm gần 2,7 tỷ USD, giảm 5,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD, tăng 51,3%; xăng dầu 2,1 tỷ USD, tăng 53,6%. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2011 không có sự thay đổi lớn so với năm 2010, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 90,6%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2010; nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 8,8% năm 2010 xuống còn 7,6%; nhóm vàng và các sản phẩm vàng tăng từ 1,2% lên 1,8%. Theo kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2012, Bộ đặt mục tiêu nhập siêu khoảng 13 tỷ USD, bằng khoảng 12% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu tăng 13% so với năm 2011 và đạt khoảng 108,5 tỷ USD. Nhập khẩu khoảng 121,5 tỷ USD, tăng 14,6% so với năm 2011. Về định hướng giai đoạn 2011 - 2015, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu bình quân 12,1%/năm, phấn đấu đến năm 2015 đạt 133 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 11,5%/năm, dự kiến khoảng 146 tỷ USD vào năm 2015. Như vậy, nhập siêu năm 2015 khoảng 9,8% kim ngạch xuất khẩu.Trong đó, với nhập khẩu các mặt hàng cần thiết, Bộ Công thương lưu ý nhập khẩu thiết bị máy móc, xăng dầu vẫn tăng do nhu cầu phát triển sản xuất và đầu tư mặc dù đã có sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung Quất (dự báo nhu cầu xăng dầu đến 2015 khoảng 22 - 23 triệu tấn).Bên cạnh đó, một số mặt hàng sẽ giảm nhập như thép, phân bón… do đưa vào sản xuất một số dự án mới.
2.2 Đánh giá
Đánh giá hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua:
Ưu điểm:
- Tốc độ tăng trưởng ngoại thương khá cao qua các năm và cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất xã hội, tăng quy mô kim ngạch xuất/nhập khẩu.
- Thị trường ngày càng mở rộng và chuyển từ đơn thị trường sang đa thị trường.
- Nền ngoại thương Việt Nam đã từng bước xây dựng được những mặt hàng có quy mô lớn được thị trường thế giới chấp nhận như: dầu khí, gạo, thủy sản, dệt may, giày dép… khai thác được lợi thế so sánh trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
- Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ cho doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cho hoạt động ngoại thương.
Hạn chế:
- Mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao.
- Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thủy sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu cũng như thị trường nước ngoài do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may)…
- Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp) còn khá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn.
- Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của ta nhìn chung chưa thật bền vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ rất khó khăn.
→ Với những hạn chế nêu trên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu xuất khẩu nói riêng của chúng ta còn chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế như vậy sẽ chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Nguyên nhân:
- Công cụ và chính sách nhà nước còn thiếu sót chưa thực sự cụ thể, điều này làm cản trở không nhỏ cho cả nhà nước và các nhà kinh doanh trong và ngoài nước.
- Quy mô nguồn vốn trong nước còn nhỏ, trình độ công nghệ khoa học kỹ thuật còn thấp, phương tiện máy móc sản xuất còn thô sơ.
- Trình độ nghiệp vụ ngoại thương nhiều cán bộ còn non yếu,chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển xã hội ngày một đổi mới tiên tiến và hiện đại hơn.
- Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại vẫn còn xảy ra và đang là vấn đề "quốc nạn".
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế đối với Việt Nam hiện nay
Từ các diễn biến và xu hướng của thương mại thế giới như đã phân tích ở trên, có thể rút ra một vài định hướng chính sách phù hợp cho Việt Nam như sau.
Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho mình.
Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả năng thuận lợi (hoặc khó khăn) của một nước này so với nước khác trong việc sản xuất cùng một loại sản phẩm hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ thương mại trong những thời điểm nhất định, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho mỗi quốc gia.
Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm ba loại: lợi thế so sánh tự nhiên vốn có, lợi thế so sánh nảy sinh do sự phát triển của lực lượng sản xuất và lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ trương, chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước. Khi nói về lợi thế tuyệt đối, A-đam Xmít, nhà kinh tế học cổ điển, cho rằng một nước chỉ nên sản xuất những loại hàng hóa sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên sẵn có của họ để có lợi nhuận cao nhất. Việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên, nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối tham gia vào thương mại quốc tế.
Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế, các quốc gia phải biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh tốt nhất và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất. Đây cũng là một bài học mà chúng ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế. Một số sản phẩm của nước ta đang có lợi thế tuyệt đối trên thị trường quốc tế cần phải đẩy mạnh xuất khẩu.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát triển và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới, cần đa phương hóa, linh hoạt hoá thị trường, mở rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước mắt đối với nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện về khoa học – kỹ thuật còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa chọn những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương hiệu quốc tế và những thị trường có khả năng và ưu thế riêng đối với mình để khai thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương mại, dịch vụ, trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức cần thiết để phát triển lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu phương cho phát triển thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước phát triển vững chắc là điều kiện quan trọng để mở rộng thị trường ra ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu và chủ động nhập khẩu của nước ta, ngược lại thị trường ngoài nước được phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thị trường trong nước phát triển mạnh hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO và các cam kết song phương khác về thương mại. Việc này chỉ có lợi cho ta, một mặt chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam là nước làm ăn nghiêm chỉnh đúng luật, đúng cam kết; mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc biệt là của tổ chức thương mại thế giới WTO, khi chúng ta gặp phải những khó khăn, rào cản và tranh chấp về thương mại quốc tế.
Năm là, phát huy