Đề tài Thực trạng kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm

Trong kế toán hiện đại có rất nhiều bộ phận kế toán: Kế toán tiền mặt, kế toán tài sản cố định, kế toán vật tư, kế toán công nợ và trong số đó không thể không nhắc tới kế toán các khoản thanh toán với người lao động. Đây có thể coi là một trong những bộ phận kế toán quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp và tổ chức nào. Bởi lẽ nó gắn bó mật thiết với người lao động, lực lượng lao động của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Công tác kế toán với người lao động nếu được thực hiện khoa học sẽ đảm bảo kết hợp một cách hài hòa giữa lợi ích của tổ chức và lợi ích của người lao động. Mọi doanh nghiệp đều mong muốn giảm tối đa chi phí trong đó có chi phí tiền lương, chi phí lao động Trong khi đó người lao động luôn mong muốn có thu nhập cao để bù đắp sức lao động và đảm bảo cuộc sống của bản thân cũng như gia đình họ. Và nhiệm vụ của kế toán các khoản thanh toán với người lao động là giải quyết vấn đề này đảm bảo cho người lao động và tổ chức đều có được lợi ích. Bên cạnh đó Nhà nước luôn có chính sách đổi mới chế độ thanh toán với người lao động cũng như chế độ tiền lương cho phù hợp với thực tế, giúp các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống trả lương cho người lao động một cách có khoa học. Chế độ kế toán mà Nhà nước ban hành là chung cho tất cả các doanh nghiệp, nhưng mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn, áp dụng một hình thức kế toán phù hợp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm đã không ngừng hoàn thiện công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động. Tuy nhiên qua quá trình tìm hiểu và phân tích thực trạng tại Công ty em nhận thấy ngoài những ưu điểm đạt được còn có những tồn tại trong công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động cần khắc phục như: - Việc luân chuyển chứng từ ở Công ty vẫn còn nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến công tác hạch toán cũng như công tác quản lý. Đặc thù của ngành xây dựng là công trình thi công ở nhiều nơi và thường xa Công ty nên chứng từ không chuyển về kịp thời sẽ gây ra việc thiếu chính xác.

doc68 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2430 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI Thực trạng kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm Giáo viên\ thực hiện : Sinh viên thực hiện : MỤC LỤC MỤC LỤC i DANH MỤC VIẾT TẮT iv DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ v DANH MỤC BẢNG BIỂU vi TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết, ý nghĩa của đề tài Trong kế toán hiện đại có rất nhiều bộ phận kế toán: Kế toán tiền mặt, kế toán tài sản cố định, kế toán vật tư, kế toán công nợ…và trong số đó không thể không nhắc tới kế toán các khoản thanh toán với người lao động. Đây có thể coi là một trong những bộ phận kế toán quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp và tổ chức nào. Bởi lẽ nó gắn bó mật thiết với người lao động, lực lượng lao động của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Công tác kế toán với người lao động nếu được thực hiện khoa học sẽ đảm bảo kết hợp một cách hài hòa giữa lợi ích của tổ chức và lợi ích của người lao động. Mọi doanh nghiệp đều mong muốn giảm tối đa chi phí trong đó có chi phí tiền lương, chi phí lao động…Trong khi đó người lao động luôn mong muốn có thu nhập cao để bù đắp sức lao động và đảm bảo cuộc sống của bản thân cũng như gia đình họ. Và nhiệm vụ của kế toán các khoản thanh toán với người lao động là giải quyết vấn đề này đảm bảo cho người lao động và tổ chức đều có được lợi ích. Bên cạnh đó Nhà nước luôn có chính sách đổi mới chế độ thanh toán với người lao động cũng như chế độ tiền lương cho phù hợp với thực tế, giúp các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống trả lương cho người lao động một cách có khoa học. Chế độ kế toán mà Nhà nước ban hành là chung cho tất cả các doanh nghiệp, nhưng mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn, áp dụng một hình thức kế toán phù hợp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm đã không ngừng hoàn thiện công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động. Tuy nhiên qua quá trình tìm hiểu và phân tích thực trạng tại Công ty em nhận thấy ngoài những ưu điểm đạt được còn có những tồn tại trong công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động cần khắc phục như: Việc luân chuyển chứng từ ở Công ty vẫn còn nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến công tác hạch toán cũng như công tác quản lý. Đặc thù của ngành xây dựng là công trình thi công ở nhiều nơi và thường xa Công ty nên chứng từ không chuyển về kịp thời sẽ gây ra việc thiếu chính xác. Tình trạng thu nhập của người lao động không đồng đều giữa các đội dù họ có cùng bậc thợ, cùng số năm công tác tại Công ty nhưng người có lương cao, người có lương thấp, tạo ra tâm lý bất ổn trong người lao động. Việc này cũng dẫn tới việc báo cáo mất chính xác về hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng đội làm Công ty thất thoát nguồn thu giảm lợi nhuận, kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ không đảm bảo tính trung thực. Nên việc nghiện cứu đề tài này là rất cần thiết. Các mục tiêu cụ thể đặt ra cần giải quyết trong đề tài Với mong muốn tìm hiểu về thực trạng kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm, để từ đó có thể tìm ra những bất hợp lý, đánh giá những ưu nhược điểm trong công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Công ty. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra những khó khăn trong công tác kế toán, cũng như những kết quả đã đạt được. Đồng thời có thể góp một tiếng nói để hoàn thiện hơn công tác trả lương cho người lao động trong công ty đảm bảo hợp lý công bằng. Để tiền lương thực sự trở thành đòn bẩy kích thích mạnh mẽ nhân tố vật chất và tinh thần cho người lao động. Từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và một phần thực hiện tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp. Ngoài ra giúp cho các cơ quan Nhà nước có một cái nhìn tổng thể về tình hình chi trả lương của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động, từ đó chia ra các chính sách phù hợp. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Người lao động với các chế độ về các khoản thanh toán với người loa động tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Không gian nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu giới hạn tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm. Thời gian nghiên cứu: số liệu được sử dụng chủ yếu là tháng 3 năm 2012. Phương pháp (cách thức) thực hiện đề tài Phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu Phương pháp điều tra: Để thực hiện phương pháp điều tra ta sử dụng các phiếu điều tra. Nội dung cơ bản của phiếu điều tra đi sâu tìm hiểu về cơ tổ chức công tác kế toán tại Công ty và công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Công ty. Các tiêu thức đưa ra trong phiếu điều tra chủ yếu dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm một cách cụ thể, dễ hiểu và ngắn gọn. Các phiếu điều tra gửi tới các nhân viên phòng kế toán. Sau đó căn cứ vào các phiếu điều tra đã phát ra trong đợt thực tập tại Công ty, tổng hợp lại kết quả các phiếu điều tra, để có những nhận định chính xác về tình hình kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Công ty hiện nay. Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn là một loạt các câu hỏi mà người nghiên cứu đưa ra để hỏi người trả lời, được áp dụng theo hình thức phòng vấn trực tiếp các cô chú trong ban lãnh đạo Công ty và phòng kế toán tài chính về tình hình kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Công ty, phỏng vấn người lao động về vấn đề tính lương và thanh toán lương của Công ty. Bảng câu hỏi được xây dựng xoay quanh vấn đề nghiên cứu. Trong hệ thống câu hỏi có cả câu hỏi đóng và câu hỏi mở nhằm thu thập thông tin một cách hiệu quả phục vụ cho quá trình viết khóa luận. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trong quá trình thực tập tại Công ty, để tập hợp các thông tin phục vụ cho quá trình viết khóa luận tốt nghiệp đã sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu. Liên hệ các phòng kế toán – tài chính của Công ty để thu thập số liệu về kế toán các khoản thanh toán với người lao động trong tháng 3 năm 2012 của Công ty. Tìm kiếm thông tin về tình hình kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại Việt Nam qua mạng internet, tạp chí chuyên ngành kế toán, kiểm toán… Tìm hiểu các luận văn, chuyên đề khác đã nghiên cứu về đề tài này. Phương pháp phân tích dữ liệu Phương pháp so sánh: Là phương pháp phân tích được thực hiện thông qua việc đối chiếu giữa các sự vật hiện tượng với nhau để thấy được những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng. Trong quá trình nghiên cứu tại Công ty thực hiện phương pháp này em so sánh đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn về công tác kế toán các khoản thanh toán với người lao động trong Công ty, để từ dó thấy được những tồn tại của Công ty. Phương pháp sử dụng bảng biểu, sơ đồ phân tích. Phương pháp toán học: Sử dụng công thức toán học vào việc tính các khoản thanh toán với người lao động. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp Nội dung của khóa luận ngoài phần mở đầu và phần kết luận được chia làm 3 phần chính sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán các khoản thanh toán với người lao động. Chương 2: Thực trạng kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm. Chương 3: Các kết luận và đề xuất về kế toán các khoản thanh toán với người lao động tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Mai Lâm. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CÁC KHOẢN THANH TOÁN VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG Một số khái niệm và lý thuyết về kế toán các khoản thanh toán với người lao động Một số khái niệm cơ bản Khái niệm về tiền lương Tại điều 55, chương IV “Tiền lương” của Bộ luật lao động ban hành năm 1994 có ghi “Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc”. Theo giáo trình kế toán tài chính 2 – Đại học Thương Mại “ Tiền lương hay tiền công là phần thù lao lao động để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động của công nhân viên đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương (tiền công) gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà công nhân đã tham gia, thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Trong doanh nghiệp sản xuất tiền lương một mặt là một khoản chi phí sản xuất hình thành nên giá trị sản phẩm, một mặt nhằm bù đắp lại hao phí sức lao động của người lao động để tái tạo ra sức lao động mới nhằm tiếp tục quá trình sản xuất. Nói tóm lại. tiền lương (hay tiền công) là số tiền thù lao mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng ta cần phân biệt giữa hai khái niệm của tiền lương: Tiền lương danh nghĩa: Là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm làm việc…ngay trong quá trình lao động. Tiền lương thực tế: Được hiểu là số lượng các loại hàng hóa tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động được hưởng lương và có thể mua được bằng tiền lương thực tế đó. Các khoản trích theo lương Ngoài tiền lương người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội, trong đó có trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), kinh phí công đoàn (KPCĐ). Bảo hiểm xã hội: Là sự bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất…Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH mà chủ yếu là từ người sử dụng lao động, người lao động và một phần sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Bảo hiểm y tế: Là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hay toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia vào quỹ BHYT khi có ốm đau, bệnh tật bằng nguồn quỹ BHYT do sự đóng góp theo chu kỳ của người sử dụng lao động, người lao động, tổ chức, cá nhân. Kinh phí công đoàn: Là khoản tiền để duy trì hoạt động các tổ chức công đoàn đơn vị và công đoàn cấp trên. Các tổ chức này hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi và nâng cao đời sống của người lao động. Bảo hiểm thất nghiệp: BHTN là một loại hình phúc lợi tạm thời dành cho người đã đi làm và bị cho thôi việc ngoài ý muốn. BHTN sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Các khoản phải thanh toán khác Thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội, trong khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội. Thuế TNCN đánh vào cả cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh. Thuế này thường được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt. Quỹ tiền thưởng: Khái niệm: Là tổng số tiền doanh nghiệp trả cho người lao động nhằm nâng cao năng suất lao động, rút ngắn thời gian làm việc. Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ sung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn nguyên tắc phân phối lao động và nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và năng suất lao động của các doanh nghiệp. Đối tượng xét thưởng: + Lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên. + Có đóng góp vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Mức thưởng: Mức thưởng một năm không thấp hơn một tháng theo nguyên tắc sau: + Căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp thể hiện qua năng suất lao động, chất lượng công việc. + Căn cứ vào thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Các loại tiền thưởng: Tiền thưởng bao gồm tiền thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến…). + Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thường xuyên): Hình thức này có tính chất lương, đây thực chất là một phần của quỹ lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng cho một tiêu chí nhất định. + Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: được tính trên cơ sở tỷ lệ quy định chung (không quá 40%) và sự chênh lệch giá giữa sản phẩm cấp cao và sản phẩm cấp thấp. + Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): Khoản tiền này được trả dưới hình thức phân loại trong một kỳ (quý, nửa năm, năm). Quỹ phụ cấp: Phụ cấp trách nhiệm: Nhằm bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản xuất hoắc làm công việc chuyên môn nghiệp vụ, vừa kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm hoặc những người làm việc đòi hỏi trách nhiệm cao chưa được xác định trong mức lương. Phụ cấp trách nhiệm được tính và trả cùng lương tháng. Phụ cấp thu hút: Áp dụng đối với CBCNV đến làm việc tại những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các đảo xa có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn do chưa có cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Phụ cấp khác: Là số tiền doanh nghiệp trả cho người lao động ngoài tiền lương, thưởng gồm: Phụ cấp làm ngoài giờ, làm thêm, người lao động gặp khó khăn… Quỹ phúc lợi: Là số tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động ngoài lương, thưởng, trợ cấp. Quỹ phú lợi có tác dụng động viên tinh thần của công nhân, làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Các khoản khác: Khoản bồi thường vật chất: Trong quá trình sản xuất, người lao động làm hư hại tới tài sản của Công ty, hoặc làm mất mát, thất thoát tài sản thì phải bồi thường theo quy định của Công ty. Tiền tạm ứng khấu trừ vào lương: Gồm tạm ứng tiền lương vì lý do công việc, mà chưa sử dụng hết hoặc tạm ứng tiền lương tháng sẽ được khấu trừ trực tiếp vào tiền lương. Ngoài ra, còn các khoản như: Tiền điện, nước, thuê nhà do Công ty trả thay người lao động.. Một số vấn đề lý thuyết về các khoản thanh toán với người lao động Quỹ tiền lương Quỹ tiền lương của DN là toàn bộ tiền lương của DN dùng để trả cho tất cả các loại lao động do DN quản lý và sử dụng. Thành phần quỹ tiền lương của DN bao gồm các khoản: Tiền lương trả cho người lao động theo thời gian làm việc. Tiền lương trả cho người lao động theo số lượng sản phẩm hay công việc hoàn thành. Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc vì mưa, bão, lũ lụt, thiếu nguyên vật liệu…hoặc nghỉ phép theo quy định hay đi học. Các khoản phụ cấp (thường xuyên) được tính vào tiền lương như: Phụ cấp thâm niên, làm đêm, thêm giờ… quỹ tiền lương thường được chia thành hai loại theo mối quan hệ với quá trình sản xuất kinh doanh. + Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho người lao động theo lương làm việc thực tế trên cơ sở nhiệm vụ được giao như: Tiền lương theo thời gian, lương sản phẩm và các khoản phụ cấp được tính vào lương. + Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian nghỉ việc theo quy đinh của Nhà nước như nghỉ lễ, nghỉ phép…hoặc nghỉ vì những lý do bất thường khác không phải do công nhân viên gây ra như thiếu nguyên vật liệu, máy hỏng. Xác định quỹ lương kế hoạch: Vkh = Tmin x (Hscbcvbq + Hspc ) x ĐBLĐ x 12 Trong đó: + Vkh: Quỹ lương kế hoạch. + Tmin: Mức lương tối thiểu = 830.000 + Hscbcvbq: Hệ số cấp bậc công việc bình quân. + Hspc: Hệ số phụ cấp. + ĐBLĐ: Định biên lao động Các hình thức trả lương Hình thức trả lương theo thời gian: Hình thức này áp dụng trong một số loại hình doanh nghiệp như các doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh nghiệp ngoài quốc doanh trả tiền cho người lao động theo hợp đồng lao động đã ký kết, hoặc trả lương cho người lao động làm công tác quản lý, làm việc tại các bộ phận hành chính sự nghiệp của doanh nghiệp. Trả lương theo thời gian được căn cứ vào mức lương cấp bậc, lương hợp đồng và số ngày làm việc thực tế của người lao động để tính tiền lương phải trả. Hình thức trả lương theo thời gian có nhược điểm vì nó chưa gắn thu nhập với kết quả lao động mà họ đạt được trong thời gian làm việc. Tùy theo yêu cầu và trình độ quản lý thời gian lao động của doanh nghiệp người ta trả lương theo hai chế độ: Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn: Theo chế độ này tiền lương nhận được của mỗi người lao động là do bậc lương cao hay thấp, thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Có 3 hình thức trả lương theo thời gian giản đơn: + Lương tháng: Tính theo số lương cấp bậc tháng. Mức lương tháng   = Lương cơ bản  x Hệ số lương + Phụ cấp + Lương ngày: áp dụng cho những công việc có thể chấm công theo ngày. Mức lương ngày = Mức lương tháng + Phụ cấp Số ngày làm việc theo chế độ + Lương giờ: Căn cứ vào mức lương ngày, số giờ làm việc trong ngày. Lương giờ dùng tính lương trả thuê cho người lao động do làm thêm ca thêm giờ. Mức lương giờ     = Mức lương ngày Số ngày làm việc theo chế độ Ưu điểm: Dễ tính, dễ trả lương cho người lao động. Nhược điểm: Mang tính bình quân nên không khuyến khích được người lao động tích cực trong công việc, sử dụng thời gian hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu…và không quán triệt theo nguyên tắc phân phối lao động. Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: Thực chất của chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa hình thức trả lương theo thời gian giản đơn với tiền thưởng khi người lao động đạt được những chỉ tiêu về số lượng hay chất lượng đã quy định. Tiền lương = Lương theo thời gian giản đơn + Tiền thưởng Hình thức trả lương này khắc phục nhược điểm của hình thức trả lương theo thời gian giản đơn. Nó vừa phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc của người lao động, vừa gắn chặt thành tích công tác của từng người thông qua các chi tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và kết quả công tác. Do đó, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì chế độ tiền lương này ngày càng được mở rộng hơn. Hình thức trả lương theo sản phẩm: Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương trả cho người lao động dựa trực tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ), công việc mà họ đã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó. Hình thức trả lương theo sản phẩm với nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian và có những tác dụng sau: + Quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Nó gắn việc trả lương với kết quả sản xuất của mỗi người do đó kích thích nâng cao năng suất lao động. + Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề, ra sức phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động. Tiền lương theo sản phẩm gồm: Tiền lương sản phẩm trực tiếp: Áp dụng trả cho những công nhân chính trực tiếp sản xuất. Lương trả cho người lao động được tính theo số lượng sản phẩm hoàn thành. Sản pẩm này phải đúng quy cách, phẩm chất, định mức kinh tế và đơn giá tiền lương sản phẩm đã quy định. Tiền lương sản phẩm = Khối lương sản phẩm x Đơn giá tiền lương sản phẩm Hình thức trả lương theo sản phẩm gián tiếp: Được áp dụng đối với các công nhân phục vụ cho công nhân chính như công nhân bảo dưỡng máy móc thiết bị, vận chuyển nguyên vật liệu, thành phẩm… Tiền lương sản phẩm gián tiếp = Đơn giá tiền lương gián tiếp x Số lượng sản phẩm hoàn thành của công nhân sản xuất chính Tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng: Là tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp kết hợp gián tiếp hoặc gián tiếp kết hợp với chế độ khen thưởng do doanh nghiệp quy định. Chế độ khen thưởng này được đặt ra khuyến khích người lao động nêu cao ý thức trách nhiệm, doanh nghiệp có chế độ tiền lương thưởng cho công nhân đặt và vượt chỉ tiêu mà doanh nghiệp quy định. Tiền lương sản phẩm lũy tiến: Là tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp
Luận văn liên quan