Đề tài Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội

Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở ra cơ hội kinh doanh, làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành "thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường. Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy nổ đã không còn xa lạ. Mấy năm gần đây Chính phủ và Bộ Tài chính đã đưa vào áp dụng chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Thực trạng khai thác bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu. Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành loại hình bảo hiểm mới mẻ này trong những năm vừa qua.

doc60 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 6161 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở ra cơ hội kinh doanh, làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành "thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường. Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy nổ đã không còn xa lạ. Mấy năm gần đây Chính phủ và Bộ Tài chính đã đưa vào áp dụng chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Thực trạng khai thác bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu. Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành loại hình bảo hiểm mới mẻ này trong những năm vừa qua. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Hương và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm cháy nổ và rủi ro hỗn hợp thuộc Tổng Công ty Bảo Việt Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó. Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình của thầy giáo và các bạn đồng nghiệp. Sinh viên thực hiện Nguyễn Mạnh Cường CHƯƠNG I GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ Sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ: Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy: Trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, cũng như các hoạt động sản xuất, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được, một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vô cùng tốn kém và khó khăn, gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách quan nhằm san sẻ những rủi ro trong xã hội, sự san sẻ giữa con người với con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như sản xuất kinh doanh khi rủi ro ập đến. Quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những rủi ro, thảm họa xảy ra bất ngờ trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất. Nó thường mang tính chất thảm họa và khi xảy ra hậu quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ. Theo lịch sử để lại từ thời Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ thống phòng cháy hữu hiệu nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La Mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ cháy là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hỏa hoạn xảy ra thì thì thiệt hại từ cháy có thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội vên. Tuy nhiên khoản trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên theo kiểu này do các nhà buôn thành phô Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Ptree. Nhưng thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem hỏa hoạn là rủi ro không thể tránh khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các bệnh dịch khác… Sự xuất hiện của bảo hiểm cháy nổ được đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luôn Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, lúc ngày người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó những nhà khinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hỏa hoạn như : Một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm cháy “ Fire Office ” (năm 1667) , năm 1684 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời là công ty “ Friendly Society ” sau đó hang loạt các công ty bảo hiểm khác đã ra đời: “ Hand and Hand ” năm 1696, “ Lom Bard House ” năm 1704… Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập là “ Company L’assurance Centree L’incendie” và “ Company Royade” và dần lan rộng sang các nước khác trên lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Ở Việt Nam trước năm 1945 đã có mộ t công ty BH cháy của Pháp hoạt động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro. Vì vậy BH nói chung và BH cháy nói riêng không có điều kiện phát triển. Phải đến tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự hạch toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài chính, về thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của Bộ Tài Chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ này mới chình thức được công ty Bảo Hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) triển khai và phát triển. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài Chính ban hành them một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 thay thế biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt buộc. Việc Chính Phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định về chế độ BH cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài Chính về quy tác và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên để Bảo Việt cũng như các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp vụ cháy. Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy với giá trị tham gia bảo hiểm lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 bảo hiểm cháy được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố, them nhiều công ty triển khai như : PJICO, PVI, Bảo Minh… với tổng giá trị bảo hiểm là gần 28.000 tỷ đồng. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng 16% so với năm 1999. Ngày càng có nhiều công ty tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn, gần đây có các công ty như: AAA, BIC… làm cho thị trường bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng và phong phú, tăng tính chất cạnh tranh từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm. Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn ngày được triển khai rộng khắp, mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp vụ này. Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế xã hội. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc: Điều 8, Luật kinh doanh bảo hiểm có ghi rõ: “ …Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội”. Theo quy định này thì chỉ những thiệt hại gây hậu quả cho lợi ích của người khác hoặc của xã hội mới thuộc phạm vi bảo hiểm bắt buộc. Do đó loại bảo hiểm này chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Thực hiện bắt buộc loại bảo hiểm này giúp giải quyết tốt các tranh chấp khi xảy ra tai nạn làm thiệt hại cho người khác hoặc của Nhà nước. Nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập khi văn hóa khiếu nại sẽ là phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đã ban hành nghị định 130/CP-NĐ quy định các doanh nghiệp, cơ sở có nguy cơ cháy nổ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm cháy… Vì sao lại có quy định này khi mà đối tượng của bảo hiểm cháy nổ là tài sản riêng của một số cá nhân, đơn vị, và nếu họ không gây thiệt hại cho ai khác ngoài bản thân thì họ không phát sinh trách nhiệm gì với xã hội. Trên thực tế các nước chủ yếu áp dụng bảo hiểm cháy nổ dưới dạng tự nguyện, nhưng đối với những cơ sở kinh tế trọng điểm, tập trung như nhà máy điện, lọc dầu, ciment… thường áp dụng bảo hiểm bắt buộc. Bởi chẳng may gặp rủi ro và xảy ra tổn thất lớn sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc dân. Do đó tham gia bảo hiểm cháy nổ như một hình thức đảm bảo an toàn xã hội. Hiện nay, các quốc gia duy trì qui trình bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại khu vực Châu Á là Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở Hong Kong, Đài Loan, Philipin, Singapore không bắt buộc. Tại Việt Nam, tất cả các cơ sở được coi là có nguy cơ cháy nổ, như đã quy định tại Nghị định 35/NĐ-CP của Chính Phủ về PCCC, đều là đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Những đối tượng này tập trung vào bắt buộc nhóm lớn : Nhóm có sản xuất, chế biến, vận chuyển, tang trữ, xuất nhập khí, chất nổ, khí đốt, xăng dầu… Nhóm nhà máy điện, trạm biến áp từ 110KV trở lên. Nhóm địa điểm công cộng, tập trung dân cư cao…( chợ, trung tâm thương mại, nhà tập thể, chung cư, rạp hát, rạp chiếu phim, nhà ga…). Vậy đối tượng của bảo hiểm cháy nổ không chỉ là những cơ sở có nguy cơ cháy nổ cao mà còn có khả năng gây thiệt hại mang tính thảm hỏa đối với xã hội. Chính từ đặc điểm này đã giải thích phần nào về ý nghĩa của sự bắt buộc trong bảo hiểm cháy nổ. Cháy xảy ra tại các cơ sở sản xuất vật liệu cháy nổ, tại các cơ sở khai thác chế biến dầu mỏ, hay kho vật liệu nổ… đều có khả năng cháy rộng và cháy lớn rất cao. Hơn nữa, do các cơ sở trên là những cơ sở có vai trò quan trọng hàng đầu với các nghành kinh tế, nên rủi ro xảy ra dẫn tới sự trì trệ không chỉ của riêng nghành đó mà còn có thể ảnh hưởng đến các nghành khác có liên quan. Do đó thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc xuất phát từ mục đích bảo hiểm vệ lợi ích công cộng và an toàn cho xã hội. Bởi vậy ngày nay với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cơ sở kinh doanh, trụ sở của các doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh, hơn nữa với tốc độ đô thị hóa cao mật độ nhà cửa, dân cư trên mỗi m2 ngày càng dày đặc. Theo số liệu thống kê mà Tổng cục thống kê công bố vào tháng 7 năm 2002, đến năm 1995 bình quân mỗi Km2 có 6,2 cơ sở kinh tế, năm 2002 là 8,8 cơ sở; đến nay con số này có thề là 11 cơ sở. Vì vậy, cháy nổ xảy ra sẽ là thảm họa chung của cả xã hội, không còn là vấn đề riêng của mỗi cá nhân doanh nghiệp. Thực hiện quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc sẽ mang lại rất nhiều lợi ích đối với nhà nước, với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng: Thứ nhất, đối với nhà nước và xã hội thực hiện cháy nổ bắt buộc tạo ra những lợi ích sau: Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gián tiếp nâng cao tinh thần trách nhiệm phòng cháy chữa cháy trong xã hội. Trước khi tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, cơ sở và doanh nghiệp buộc phải sở hữu giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy. Do vậy, đây là cơ hội để chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc một lần nữa công tác PCCC. Tăng thu ngân sách: Do doanh nghiệp bảo hiểm tăng doanh thu từ chi phí bảo hiểm cháy nổ, lợi nhuận tăng, kết quả là thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp nhiều hơn. Bảo hộ nghành kinh tế bảo hiểm trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, tại Luật kinh doanh bảo hiểm bắt buộc phải xin phê duyệt của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính. Luật cũng quy định các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài được phép bán sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nói chung, chứ không nói rõ là trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có doanh nghiệp bảo hiểm nào trong khối này ( có vốn đầu tư nước ngoài ) được phép bán bảo hiểm bắt buộc. Như vậy, rõ rang qui định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước. Nó tạo ra sự giới hạn sân chơi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài trước thị trường bảo hiểm cháy nổ đầy hấp dẫn. Đây sẽ là bước đệm để tăng cường hơn nữa nội lực của các doanh nghiệp, tạo ra vị thế vững chắc cho các doanh nghiệp trước thời điểm hiệp đinh thương mại Việt- Mỹ và các cam kết quốc tế, cam kết WTO về lĩnh vực bảo hiểm chính thức được dỡ bỏ. Giảm chi ngân sách cho hoạt động chi PCCC. Để PCCC hàng năm, ngân sách nhà nước dành cho công tác này là khá lớn. Số tiền đó được chi cho các hoạt động như tuyên truyền, quảng bá về sự cần thiết của PCCC, hoặc tài trợ cho cơ quan PCCC thực hiện các dự án xây dựng các công trình như bể chứa nước ngầm, tăng cường trạm bơm công cộng…; tăng cường trang thiết bị cho lực lượng PCCC; đầu tư cho giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng về PCCC… Doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện bảo hiểm cháy nổ cho các đối tượng có nguy cơ cháy nổ, vì lợi ích của chính mình cũng sẽ thực hiện những biện pháp trên, phần nào đó đã giảm bớt gánh nặng cho nhà nước. Ngoài ra với nghĩa vụ phải trích một quỹ khá lớn cho các khoản chi PCCC, như vậy ngân sách dành cho công tác PCCC có thể cắt giảm… Giảm nguy cơ cháy nổ, từ đó gián tiếp bảo hiểm vệ môi trường sống: Do nhà bảo hiểm có những chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn về quản trị rủi ro, nên khi tham gia bảo hiểm, các cơ sở và doanh nghiệp sẽ nhận được những ý kiến hữu ích nhất cho công tác PCCC. Để xảy ra tình trạng cháy sẽ gây tác hại không lường tới chủ doanh nghiệp, xã hội, và công ty bảo hiểm (do bồi thường). Do đó, vì ích lợi của chính mình, doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải chủ động trong công tác PCCC tại các cơ sở. Biện pháp mà các doanh nghiệp áp dụng ngoài tư vấn còn có cử cán bộ thường xuyên xuống cơ sở thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động… Hạn chế được số vụ cháy, nổ tức là hạn chế lượng khí độc hại CO2 thải ra môi trường, như vậy đã góp phần giảm bớt sự ô nhiễm. Sự bắt buộc sẽ tạo ra một xã hội an toàn hơn, bởi tất cả các cơ sở doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, khi bị tổn thất sẽ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường đầy đủ, từ đó khôi phục nhanh chóng hoạt động của chính mình. Nếu không có bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, sẽ có rất nhiều người không nhận thức hết sự nghiêm trọng của vấn đề… Thứ hai: Ích lợi của sự bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy nổ đối với doanh nghiệp và cơ sở: Tạo ra động lực mạnh hơn khi tham gia bảo hiểm. Vì bắt buộc, doanh nghiệp để tránh những phiền phức nhất định, sẽ đặt biệt chú ý đến việc tham gia bảo hiểm cháy nổ. Không có sự bắt buộc, chủ doanh nghiệp có thể vì những lý do khác nhau trì hoãn việc mua bảo hiểm … Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, từ đó tạo ra sự minh bạch hơn nữa trong thực hiện bảo hiểm cháy nổ… Trước khi có nghị định 130/NĐ-CP, nghiệp vụ này đã được qui định bắt buộc tại Luật PCCC và Luật bảo hiểm, song các quy định và chế tài trong áp dụng còn rất sơ sài. Hiệu quả áp dụng không cao, do vậy sau văn bản quy phạm pháp luật này, hệ thống các văn bản về cháy nổ, bảo hiểm cháy nổ đã đầy đủ hơn, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho người tham gia. Có đầy đủ cơ sở cho khiếu kiện hơn… Tạo điều kiện cho DN được tiếp cần với tất cả những tác dụng của bảo hiểm cháy, như đã trình bày… Thứ ba, đối với doanh nghiệp bảo hiểm Tốc độ tăng doanh thu phí lớn hơn tốc độ tăng chi phí kinh doanh: Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm cần tới sự tham gia bảo hiểm của doanh nghiệp, cơ sở mà chính những đối tượng này, để tránh bọ phạt hành chính, tước giấy phép hoạt động… sẽ phải tìm tới các doanh nghiệp bảo hiểm… Như vậy, khách hàng tăng, trong khi chi phí cho khai thác có thể không tăng hoặc tăng không nhiều. Sự bắt buộc tạo ra lợi thế hơn hẳn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được cấp phép kinh doanh bảo hiểm bắt buộc, trong khi đó thị trường bảo hiểm cháy nổ rất tiềm năng. Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm, còn có các cơ quan hữu quan khác tham gia vào thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm cháy nổ, như công an, cơ quan PCCC, địa phương… Như vậy gánh nặng của doanh nghiệp bảo hiểm đã được chi nhỏ và san sẻ. 1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc: 1.2.1 Cơ sở pháp lý: Luật dân sự quy định chung về hoạt động bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm … đây cũng là cơ sở của hoạt động bảo hiểm cháy, nổ. Luật phòng cháy chữa cháy có hiệu lực từ ngày 29/06/2001 tại điều 9 – Bảo hiểm cháy nổ quy định “Cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở nguy hiểm về cháy, nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở đó…” Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ngày 09/12/có quy định “ Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về phí bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm va doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng bởi một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với khách. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Bảo hiểm cháy nổ. Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tưng thời kỳ, Chính Phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.” ( Điều 8 – Luật Bảo hiểm) Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 18/11/2006 quy định chi tiết thi hành chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo Luật PCCC và Luật kinh doanh Bảo hiểm. Thông tư lien tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/04/2007 hướng dẫn chi tiết về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc trích lập kinh phí cho hoạt động PCCC và cơ chế quản lý, cấp phát, thanh toán quyết toán nguồn kinh phí này. Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc và Biểu phí bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc. 1.2.2 Đối tượng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, tổ chức, và cá nhân có cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo qui định. Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định là bảo hiểm tài sản đối với các rủi ro về cháy, nổ của: Nhà, công trình kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo. Máy móc thiết bị. Hàng hóa, vật tư, tài sản khác. Những tài sản này chỉ thực sự được bảo hiểm hiểm khi giá trị của chúng tính được thành tiền và được ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. Bên cạnh đó Nhà Nước cũng khuyến khích các cơ quan, tổ chức và các cá nhân không thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định mua bảo hiểm cháy, nổ trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan. 1.2.3 Phạm vi bảo hiểm. Đơn bảo hiểm bồi thường cho thiệt hại của tài sản được bảo hiểm do hai rủi ro được bảo hiểm là Cháy và Nổ ( được định nghĩa trong Quy tắc bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc đính kèm ) gây ra. Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do một trong những nguyên nhân sau đây: Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên. Tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt. Tài sản chịu tác động của tác động của một quá trình xử lý có dung nhiệt. Sét đánh trực tiếp vào tài sản được bảo hiểm nhưng không gây Cháy, Nổ. Thiệt hại xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của thiết bị điện d
Luận văn liên quan