Năm 2006 với xu thế quốc hoá ngày càng cao của các nước trên thế giới, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO sau 11 năm phấn đấu và trưởng thành. Điều đó cho thấy rằng trong sự vận động không ngừng của thời đại Việt Nam đã không còn nằm trong vị thế cô lập, đối trọng mà trở thành đồng minh quan trọng của các quốc gia trên thế giới trong mọi lĩnh vực.
Song song với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm gần đây Việt Nam được đánh giá là Quốc gia có tình hình kinh tế chính trị ổn định nhất. (Điều đó càng được khẳng định khi Hà Nội được UNESSCO công nhận là “Thành phố vì hoà bình” vào năm 2000). Thu hút đầu tư và là điểm đến du lịch lý tưởng của du khách quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cũng diễn ra khá nhiều diễn biến phức tạp. Hàng loạt các loại tội phạm có tính chất nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội đã diễn ra ngày càng phổ biến: trộm cắp, ma tuý, mại dâm Trong đó tội “cướp tài sản” (Điều 133 BLHS) là loại tội phạm nguy hiểm xâm phạm đến quyền sở hữu của mỗi công dân. Đây có thể nói là quyền bất khả xâm phạm của mỗi công dân. Đây cũng được coi là quyền bất khả xâm phạm đã được Hiến pháp 1992 cụ thể hoá thông qua nhiều văn bản pháp luật khác nhau do nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật Hình sự là một ví dụ cụ thể. Luật Hình sự bảo vệ quyền sở hữu của con người bằng cách trừng trị mọi hành vi trái với pháp luật xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân. Đây là vấn đề có khá nhiều bức xúc do vậy Đảng và Nhà nước ta cũng cần đưa ra các chính sách pháp luật cụ thể, phát triển tư duy chính trị pháp lý cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội.
Đối với Hà Tĩnh là một tỉnh nghèo miền Trung nằm dọc theo quốc lộ 1A là dải đất nối liền hai miền Nam – Bắc với diện tích không lớn, mật độ dân cư thưa thớt. Người dân ở đây vẫn cần cù, một nắng hai sương, cuộc sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây nền kinh tế của Hà Tĩnh tăng trưởng một cách chóng mặt điều đó cho phép người dân tiếp cận nhiều luồng văn hoá khác nhau dẫn đến xã hội phân hoá, hiện tượng tiêu cực ngày càng phổ biến. Đặc biệt là các loại tệ nạn xã hội: Ma tuý, mại dâm những loại tội phạm này chủ yếu tập trung ở độ tuổi thanh thiếu niên đang ở trong độ tuổi lao động. Vì vậy đã gây ra nhiều bức xúc trong dư luận nhân dân. Đứng trước thực trạng đó với tư cách là một sinh viên ngành luật, mà trước hết là một con người Hà Tĩnh. Khi được giới thiệu về thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng, nguyên nhân, và các giải pháp phòng chống tội trộm cướp tài sản ở địa phương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Tình hình tội phạm vi phạm điều 133 BLHS luôn biến động diễn ra trên thực tế và khá phổ biến và đa dạng. Mặt khác đây là lần đầu tiên đi nghiên cứu sâu vào vấn đề với trình độ còn hạn chế, trải qua thực tế còn ít. Thời gian nghiên cứu không nhiều. Do vậy, với đề tài này em chỉ đề cập được một số vấn đề về trách nhiệm hình sự có liên quan và lấy thực trạng tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh làm ví dụ chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức. Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện tốt chuyên đề của mình.
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4093 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng, nguyên nhân, và các giải pháp phòng chống tội trộm cướp tài sản ở Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Lời nói đầu
Năm 2006 với xu thế quốc hoá ngày càng cao của các nước trên thế giới, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO sau 11 năm phấn đấu và trưởng thành. Điều đó cho thấy rằng trong sự vận động không ngừng của thời đại Việt Nam đã không còn nằm trong vị thế cô lập, đối trọng mà trở thành đồng minh quan trọng của các quốc gia trên thế giới trong mọi lĩnh vực.
Song song với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm gần đây Việt Nam được đánh giá là Quốc gia có tình hình kinh tế chính trị ổn định nhất. (Điều đó càng được khẳng định khi Hà Nội được UNESSCO công nhận là “Thành phố vì hoà bình” vào năm 2000). Thu hút đầu tư và là điểm đến du lịch lý tưởng của du khách quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cũng diễn ra khá nhiều diễn biến phức tạp. Hàng loạt các loại tội phạm có tính chất nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội đã diễn ra ngày càng phổ biến: trộm cắp, ma tuý, mại dâm…Trong đó tội “cướp tài sản” (Điều 133 BLHS) là loại tội phạm nguy hiểm xâm phạm đến quyền sở hữu của mỗi công dân. Đây có thể nói là quyền bất khả xâm phạm của mỗi công dân. Đây cũng được coi là quyền bất khả xâm phạm đã được Hiến pháp 1992 cụ thể hoá thông qua nhiều văn bản pháp luật khác nhau do nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật Hình sự là một ví dụ cụ thể. Luật Hình sự bảo vệ quyền sở hữu của con người bằng cách trừng trị mọi hành vi trái với pháp luật xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân. Đây là vấn đề có khá nhiều bức xúc do vậy Đảng và Nhà nước ta cũng cần đưa ra các chính sách pháp luật cụ thể, phát triển tư duy chính trị pháp lý cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội.
Đối với Hà Tĩnh là một tỉnh nghèo miền Trung nằm dọc theo quốc lộ 1A là dải đất nối liền hai miền Nam – Bắc với diện tích không lớn, mật độ dân cư thưa thớt. Người dân ở đây vẫn cần cù, một nắng hai sương, cuộc sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây nền kinh tế của Hà Tĩnh tăng trưởng một cách chóng mặt điều đó cho phép người dân tiếp cận nhiều luồng văn hoá khác nhau dẫn đến xã hội phân hoá, hiện tượng tiêu cực ngày càng phổ biến. Đặc biệt là các loại tệ nạn xã hội: Ma tuý, mại dâm…những loại tội phạm này chủ yếu tập trung ở độ tuổi thanh thiếu niên đang ở trong độ tuổi lao động. Vì vậy đã gây ra nhiều bức xúc trong dư luận nhân dân. Đứng trước thực trạng đó với tư cách là một sinh viên ngành luật, mà trước hết là một con người Hà Tĩnh. Khi được giới thiệu về thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng, nguyên nhân, và các giải pháp phòng chống tội trộm cướp tài sản ở địa phương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Tình hình tội phạm vi phạm điều 133 BLHS luôn biến động diễn ra trên thực tế và khá phổ biến và đa dạng. Mặt khác đây là lần đầu tiên đi nghiên cứu sâu vào vấn đề với trình độ còn hạn chế, trải qua thực tế còn ít. Thời gian nghiên cứu không nhiều. Do vậy, với đề tài này em chỉ đề cập được một số vấn đề về trách nhiệm hình sự có liên quan và lấy thực trạng tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh làm ví dụ chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức. Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện tốt chuyên đề của mình.
Sinh viên thực tập
Phần II:
Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin
1. Thời gian thu thập thông tin
Với nhận thức là chuyên đề về “tội cướp tài sản” theo Điều 133 BLHS là một chuyên đề khá phức tạp, mật độ dân cư thưa thớt và chủ yếu là dân nhập cư từ các địa phương khác đến. Do vậy, việc đi sâu vào thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì thế ngay từ những ngày đầu (bắt đầu từ ngày 17/01/2007) được phân công thực tập tại Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cho đến giai đoạn hoàn thiện cuối cùng (ngày 27/04/2007) được sự chỉ bảo tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại toà án em đã luôn luôn chú trọng việc thu thập thông tin về tình hình tội “cướp tài sản” cũng như nghiên cứu hồ sơ và xem xét công tác xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh.
Với khoảng thời gian là hơn ba tháng (từ 17/1 cho đến 27/4/2007) tuy thời gian không dài để có thể hoàn thiện tốt quá trình nghiên cứu cũng như tiếp cận thực tế. Tuy nhiên đó cũng là khoảng thời gian cần thiết có thể giúp em thu thập những thông tin đúng đắn, chính xác cho việc hoàn thành chuyên đề thực tập của mình.
2. Phương pháp thu thập thông tin.
Để thu thập được lượng thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết trên thực tế là một vấn đề không dễ. Bên cạnh đó như đã nói ở chuyên đề về tội “cướp tài sản” là một chuyên đề khó, muốn có được những thông tin chính xác cần phải có cách tiếp cận đúng đắn không xa rời thực tế, không áp dụng lý thuyết một cách đúng đắn thì đòi hỏi phải lựa chọn phương pháp phù hợp. Cho nên, trong chuyên đề thực tập này bên cạnh kiến thức cơ bản mà em tiếp thu trên ghế nhà trường để áp dụng nó trên thực tế và có được những kiến thức mới, sát với thực tế thì em đã sử dụng những phương pháp khiến cho thông tin mình thu thập không sai lệch, thiếu khách quan và có thể bao quát được toàn bộ vấn đề cần tìm hiểu. Trong thời gian thực tập, TAND tỉnh Hà Tĩnh em đã lựa chọn những phương pháp sau:
Phương pháp điều tra xã hội học.
Điều tra xã hội học là là phương pháp khá quan trọng. Nó được sử dụng rất nhiều trong công tác nghiên cứu các ngành khoa học khác nhau. Với chuyên đề này em đã sử dụng một cách triệt để phương pháp điều tra xã hội học sẽ giúp ta tiếp cận vấn đề dựa trên cơ sở thu thập thông tin phục vụ cho việc hoàn thành tốt đề tài đã lựa chọn.
Bên cạnh việc nghiên cứu lý thuyết trong thời gian thực tập trên ghế nhà trường, việc xem xét thu thập thông tin từ khi tham gia xem xét thực tiễn xét xử tại TAND các cấp thì phương pháp đièu tra xã hội học sẽ giúp ta tiếp cận vấn đề dựa trên cơ sở thu thập ý kiến. Từ đó quyết định hướng giải quyết đối với tình hình của loại tội phạm này đang diễn ra ngày càng gia tăng tại địa phương. khi được giới thiệu thực tập tại tỉnh Hà Tĩnh để tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện phát sinh và thực trạng, giải pháp của tội “cướp tài sản” thì em đã tiến hành việc điều tra thông qua việc phát phiếu điều tra, phỏng vấn, toạ đàm (ví dụ như: phát phiếu điều tra hoặc phỏng vấn tại các khu đông dân cư như: Trường học, cơ quan, công sở…) đồng thời trực tiếp tìm hiểu ý kiến đề xuất từ những người trực tiếp thụ lý, giải quyết các vụ án cũng như các đối tượng phạm tội về loại tội phạm này. Kết quả thu thập được cho thấy có tới 78,9% trả lời là không hề biết về tình hình tội phạm này đang diễn ra như thế nào, nguyên nhân là do đâu. Điều đó chứng tỏ hầu hết người dân còn thờ ơ, bàng quan về tình hình trật tự an ninh xảy ra tại địa phương. Số ít còn lại mặc dù có thái độ lo lắng trước sự gia tăng của tình hình tội phạm về số lượng và mức độ vi phạm của loại tội phạm này. Nhưng khi được hỏi về nguyên nhân, điều kiện phát sinh hay hướng giải quyết thì họ chỉ đưa ra những quy định chung chung và không thống nhất. Đây là một thực trạng đáng báo động, cần phải có những biện pháp nhằm tuyên truyền, giáo dục cho người dân về ý thức tuân thủ pháp luật. Đồng thời, thông tin kịp thời cho người dân nắm được tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn địa phương để từ đó nhân dân có ý thức nâng cao trong việc cảnh giác và phòng chống loại tội phạm này.
Phương pháp quan sát.
Việc nghiên cứu lý thuyết và thu thập ý kiến thông qua các buổi toạ đàm phỏng vấn là phương pháp rất cần thiết khi nghiên cứu đề tài. Song để có được thông tin và số liệu một cách khách quan chính xác thì cần phải kinh qua trên thực tế. Và việc sử dụng phương pháp quan sát là một tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Đây là phương pháp quan trọng chủ yếu trong việc thu thập thông tin. Bởi lẽ, các số liệu là cơ sở để nghiên cứu đề tài cần phải được lấy từ thực tế, từ những con số cụ thể, chính xác. Do vậy, ngay từ những ngày đầu thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh em đã có điều kiện tham gia các phiên toà xét xử về tội “cướp tài sản” hoặc trực tiếp đến trại giam Cầu Đông tìm hiểu thông tin qua các đối tượng phạm tội…Vì thời gian thực tập không dài lại đúng vào dịp cuối năm, Tết Nguyên Đán và đầu năm nên việc tham gia các phiên toà xét xử còn quá ít (có khoảng 3 phiên toà) so với yêu cầu của đề tài. Tuy nhiên, cùng với sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các cô chú, anh chị đang công tác tại TAND tỉnh Hà Tĩnh và sự nỗ lực cố gắng của bản thân bằng việc nghiên cứu hồ sơ em đã có được những thông tin cần thiết qua các năm cụ thể:
Năm 2004: có tới 39 vụ, năm 2005: có tới 22 vụ, năm 2006: 28 vụ.Ngoài ra còn có các bản án, bản cáo trạng…Với số lượng các thông tin này tuy không nhiều song cũng có thể coi là cần thiết để em có thể hoàn thiện để em có thể coi là cần thiết để em có thể củng cố hoàn thiện đề tài thực tập của mình.
Phương pháp thống kê.
Đây là phương pháp cuối cùng và không thể thiếu trong quá trình thu thập thông tin. Cũng như các phương pháp nêu trên thì phương pháp thống kê cũng đã được sử dụng rất nhiều trong các ngành khoa học khác nhau. Nó có tầm ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập thông tin.
Bằng các số liệu thu thập thông qua việc điều tra trực tiếp tham gia các phiên toà xét xử cũng như nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, em đã tiến hành phân loại các tài liệu đã được thu thập chứng cứ như: đặc điểm nhân thân người phạm tội, thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội, thủ đoạn và phương pháp thực hiện hành vi phạm tội, công cụ phạm tội…sắp xếp chúng một cách có khoa học, loại bỏ những số liệu không cần thiết. Đồng thời, để có được những thông tin chính xác, không sai lệch thì việc phân tích chúng ở nhiều góc độ, so sánh tính chính xác các tài liệu thu thập được, từ đó tổng hợp chúng là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, việc sắp xếp, phân tích, so sánh các số liệu trên để chúng trở lên khách quan, đúng đắn và khoa học Logic không phải là dễ. Nó đòi hỏi chúng ta phải tư duy, lựa chọn một cách sáng suốt. Trong quá trình thu thập thông tin được sự giúp đơ của các cô chú, anh chị đang công tác tại TAND tỉnh Hà Tĩnh mà các số liệu thu thập được đã được lựa chọ kỹ càng thông qua các: Bản báo cáo công tác chuyên môn, báo cáo công tác thi đua, bản án, cáo trạng…và sắp xếp chúng một cách logic và có khoa học để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài của mình.
Có thể coi công tác phương pháp thống kê là công đoạn cuối cùng, quan trọng trong việc thu thập thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu. Nếu chỉ sử dụng hai phương pháp: điều tra xã hội học và quan sát thì lượng thông tin thu thập đựoc trở nên vô nghĩa khi chúng không được sắp xếp: Thống kê một cách logic, khoa học. Vì vậy, bên cạnh việc sử dụng hai phương pháp trên thì phương pháp thống kê là không thể thiếu.
Như vậy, trên đây là các phương pháp em đã sử dụng trong quá trình thu thập thông tin. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc sử dụng các phương pháp này là một nhu cầu tất yếu, quan trọng để có được những thông tin chính xác, khách quan, đầy đủ, nhằm hoàn thiện chuyên đề thực tập. Vì vậy, nó đóng vai trò không thể thiếu phục vụ cho việc hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp mà em đã lựa chọn.
3. Nguồn thu nhập thông tin.
Để hoàn thành tốt chuyên đề, đồng thời củng cố thêm vốn kiến thức còn ít ỏi của mình trong quá trình thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh ngoài việc nghiên cứu các tài liệu cơ bản (vốn đã được học tại trường) như Bộ Luật Hình sự Việt Nam 1999( cụ thể là điều 133), Giáo trình Luật Hình sự ( của trường Đại học Luật Hà Nội) thì cùng với sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại TAND tỉnh Hà Tĩnh em đã được tiếp cận các tài liệu quan trọng như: Sổ thụ lý các vụ án hình sự, các bản án, bản cáo trạng, sổ kết quả giải quyết vụ án hình sự, báo cáo công tác chuyên môn, công tác thi đua…và nhiều loại hồ sơ khác trong các năm 2004, 2005, 2006 như: Công văn, Quyết định…
Đây là nguồn chứa đựng các thông tin mà em đã thu thập được. Với nguồn tài liệu này tuy vẫn còn ít ỏi so với những đòi hỏi của đề tài “cướp tài sản”. Song phần nào đã giúp em lý giải được tình hình, nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Từ đó, đề xuất những kiến nghị, giải pháp phù hợp trong việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
4. Thông tin thu thập được.
Sau hơn ba tháng thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh, bằng những biện pháp thu thập thông tin một cách thiết thực. Đồng thời, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại TAND và sự nỗ lực của bản thân em đã thu thập được một lượng thông tin vô cùng quý báu phục vụ cho việc nghiên cứu của mình thông qua các con số cụ thể qua các năm (được rút ra từ báo cáo tổng kết năm 2004, 2005, 2006).
Năm 2004, toàn ngành đã xét xử 39 vụ 118 bị cáo trong tổng số 613 vụ 1053 bị cáo tội phạm hình sự.
Năm 2005: Toàn ngành đã xét xử 22 vụ 70 bị cáo trong tổng số 422 vụ 664 bị cáo tội phạm hình sự.
Năm 2006: Toàn ngành đã đưa ra xét xử 28 vụ 51 bị cáo trong tổng số 520 vụ 780 bị cáo tội phạm hinh sự.
Như vậy, trên đây là các số liệu cụ thể qua các năm đã được thu nhập trong thời gian thực tập tại TAND tỉnh Hà Tĩnh. Tuy những số liệu này vẫn còn ít ỏi so với một chuyên đề rộng như “Thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp phòng chống tội cướp tài snả ở địa phương” nhưng đây là những số liệu được thu thập một cách khách quan, đúng đắn và chính xác, là nguồn thông tin hợp lý để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề thực tập của mình.
Phần III
Thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp phòng chống tội “cướp tài sản” trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Thực trạng tội cướp tài sản trong những năm gần đây.
Trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tình hình tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu của con người diễn ra hết sức phức tạp, dưới nhiều hình thức đa dạng , gây mất trật tự an ninh xã hội, làm nhức nhối toàn thể cộng đồng. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần sớm được ngăn chặn. Đặc biệt, đối với tỉnh Hà Tĩnh – một tỉnh nghèo miền trung đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, mở cửa nền kinh tế. Do đó, một số loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác cũng phát triển đa dạng như: buôn bán ma tuý, mại dâm, trộm cắp tài sản… cùng với sự phát triển của loại tội và tệ nạn xã hội này tội “ cướp tài sản” cũng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và các vụ cũng như tính chất mức độ phạm tội. Đây là loại tội phạm có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội. Không những trực tiếp xâm phạm đến tính mạng tài sản của con người mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự chung cho xã hội và gây hoang mang trong quần chúng.
Theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Hà Tĩnh trong năm 2004, 2005, 2006 thì tội “cướp tài sản” và loại tội phạm này ngày càng có xu hướng gia tăng. Cụ thể:
Năm 2004: toàn ngành đã xét xử 39 vụ 118 bị cáo trong tổng số 613 vụ 1053 bị cáo tội phạm hình sự mà TAND tỉnh Hà Tĩnh đã thụ lý và xét xử .
Năm 2005: toàn ngành đã đưa ra xét xử 22 vụ 70 bị cáo trong tổng số 422 vụ 664 bị cáo tội phạm hình sự nói chung.
Năm 2006: toàn ngành đã đưa ra xét xử 28 vụ 51 bị cáo trong tổng số 520 vụ 780 bị cáo tội phạm hình sự .
Rõ ràng, trên thực tế cho thấy tội “cướp tài sản” chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng số tội phạm và có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, điều hết sức nguy hiểm và đáng báo động hiện nay là các đối tượng phạm tội có xu hướng càng trẻ hoá và tập trung chủ yếu vào độ tuổi từ 15-19. Trong đó, nhiều bị cáo đang ở lứa tuổi vị thành niên, nhiều đối tượng phạm tội đang là học sinh nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, kém hiểu biết pháp luật. Bên cạnh đó, gia đình nhà trường buông lỏng trong quản lý, thiếu quan tâm theo dõi, giáo dục thường xuyên dẫn đến các em đi đâu, làm gì đều không biết. Hậu quả là các em tụ tập thành ổ nhóm ăn chơi đua đòi khi không có tiền thì bàn nhau đi ăn cướp để thoả mãn những nhu cầu hư hỏng của mình. Trong số nhiều vụ án xảy ra điển hình là vụ cướp tài sản xảy ra tại xã Đức Lạc, Đức Thọ vào hai đêm28/2/2004 và 7/3/2004 Đoàn Văn Khải, Đặng Sỹ Hiền cùng bốn tên khác đã dùng kiếm, dao, côn khống chế đe doạ những người đi đường tại những nơi vắng vẻ người qua lại thực hiện tám vụ cướp tài sản. Tuy số lượng tài sản mà bọn chúng chiếm đoạt không lớn xó khi chỉ được vài nghìn. Điều đáng nói ở đây là có tới 5/6 bị cáo khi bị cáo đang ở lứa tuổi vị thành niên. Trong đó có bị cáo chưa đủ 16 tuổi.
Tính nghiêm trọng của tội phạm này còn được phản ánh qua số lượng cá bị cáo tham gia. Đồng thời có nhiều bị cáo tham gia cùng một vụ án. Số vụ án có tính chất đồng phạm cao. Tính chất nguy hiểm của nó thể hiện các bị cáo đã tiếp nhận mục đích của nhau, chúng có sự bàn bạc, chuẩn bị kỹ lưỡng. Do đó thường gây ra nhiều hậu quả lớn. Ví dụ điển hình đó là vụ cướp tài sản xảy ra tại địa bàn xã Kỳ Thư, huyện Kỳ Anh vào đêm 19/11/2005 do tên Hoàng Văn Minh, Trần Văn Hải, Nguyễn Tuấn Anh và đồng bọn sau khi dự đám cưới về do không có tiền để đánh bạc đã bàn nhau đến đoạn đường vắng (gần nghĩa trang xã) nơi ít người qua lại đẻ thực hiện hành vi cướp tài sản mà bị hại là anh Trần Đức Vĩnh đã chết trên đường cấp cứu do bị bọn chúng dùng dao đâm vào tim.
Bên cạnh đó, tính nghiêm trọng của tình hình tội phạm này còn thể hiện ở hình thức, thủ đoạn, phương tiện, công cụ gây án. Nhiều vụ phạm tội được thực hiện rất táo bạo, dã man với những phương tiện nguy hiểm, bất chấp hậu quả xảy ra như thế nào, như: mã, tấu, kiếm … Ví dụ trường hợp Lê Văn Lương ở xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ do không có tiền chiêu đãi bạn gái nên vào đêm 11/1/2005 đã dùng mã tấu tự chế đi đến đoạn đê gần làng thấy anh Nguyễn Văn H và chị Trần Thị L đang ngồi tâm sự khống chế anh H rồi thực hiện hành vi cướp. Nhưng do anh H chống cự và chị L kêu cứu nên tên Lương hoảng sợ ra tay đâm vào bụng anh H làm anh H chết ngay tại chỗ. Sau đó hắn còn tiếp tục đe doạ chị L cướp một điện thoại di động và bỏ trốn. Hành động của tên Lê Văn Lương cho thấy tính côn đồ, thủ đoạn dã man, tàn bạo và hắn đã nhận được bản án thích đáng: 12 năm tù giam.
Mặt khác, có nhiều trường hợp tái phạm, có những tên trong thời gian thử thách vẫn phạm tội. Chúng có thể phạm tội ở mọi lúc mọi nơi. Chứng tỏ sự coi thường pháp luật, bất chấp dư luận xã hội. Ví dụ cụ thể: trường hợp Võ Đức Tùng sinh năm 1974 trú tại xóm 2 xã Sơn Thịnh, Hương Sơn đã thực hiện hành vi cướp tài sản của anh Nguyễn Đình Hiệp vào ngay 2/10/2006 và bị Viện kiểm sát Nhân dân khởi tố theo bản cáo trạng số 06/QDD-KSĐT của Viện kiểm sát Nhân dân Hương Sơn. Trước đó, ngày 20/8/2006 đã bị TAND huyện Hương Sơn kết án về hành vi cướp tài sản xảy ra trong đêm 10/5/2006 nhưng cho hưởng án treo và đang trong thời gian thử thách. Như vậy, hành vi của tên Võ Đức Tùng cho thấy thái độ coi thường pháp luật, bất chấp dư luận xã hội chỉ vì thiếu tiền tiêu vặt, lười lao động, chỉ thích ăn chơi đua đòi. Với bản án thích đáng mầ TAND huyện Hương Sơn đã tuyên cho thấy sự nỗ lực hết mình của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc ngăn chặn, bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Qua những số liệu và ví dụ đã được phân tích trên đây có thể kết luận rằng tình hình tội “cướp tài sản” trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là rất báo động có nhiều diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Đây là nỗi lo không chỉ riêng ai. Mặc dù, trong những năm qua TAND các cấp thuộc địa bàn Hà Tĩnh đã nỗ lực hết mình trong việc phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi vi phạm. Tuy nhiên, vẫn phải kể đến nhiều vụ án phạm tội “cướp tài sản” và nhiều bị cáo chưa bị phát hiện, điều tra và xử lý kịp thời (còn trong được gọi là tội phạm ẩn) mặc dù pháp luật Hình sự của Nhà nước ta đã chỉ rõ “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. “Không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Để có thể đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và mỗi chúng ta, đặc biệt là người làm công tác nghiên cứu và công tác thực tiễn về pháp luật phải có những biện pháp cụ thể, hiều quả để đấu tranh chống và phòng ngừa loại tội phạm có tính nguy hiểm đặc biệt này.
2. Nguyên nhân của tình hình tội “cướp tài sản” trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Trong nội dung trên chúng ta đã đi đánh giá thực trạng của tội “cướp tài sản” trên địa