Đề tài Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục Sức khỏe sinh sản của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội

Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ bản nhất; con người sống hạnh phúc là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ tổ quốc. Chăm sóc sức khỏe không chỉ là nhu cầu cuả mỗi cá nhân mà nó còn là mục tiêu cho sự pháp triển của xã hội. Hiện nay quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn ngày càng gia tăng, và những hậu quả tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá thai, có thai tuổi vị thành niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14, 15 tuổi, việc kết hôn sớm xảy ta rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã hội như: tình trạng bệnh tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu kém nghiêm trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh giang mai, nhiễm HIV và gây nên những tác hại lớn về kinh tế, xã hội, tâm lí Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về văn hoá xã hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi, sinh hoạt thiếu lành mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ trường, nhậu nhẹt là tình trạng khá phổ biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong đời sống của thanh thiếu niên và xã hội. Ngoài ra các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức tạp Trước tình hình đó, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục SKSS của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội” Nhằm mục đích nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và mong muốn đáp ứng đúng nhu cầu của học sinh trong việc cung cấp kiến thức sức khỏe sinh sản

doc69 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9616 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục Sức khỏe sinh sản của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi các kết quả, số liệu nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị nghiên cứu. Người cam đoan Phạm Thị Hồng LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài nghiên cứu này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giáo viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thị Hương, cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà cố vấn đoàn trường Trương Định; cùng các em học sinh trường THPT Trương Định. Ngoài ra tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô, gia đình và bạn bè thân thiết đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để bài khóa luận được hoàn thành MỤC LỤC Bài nghiên cứu có 8 biểu đồ và 4 bảng biểu DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT UNFPA: Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNESCO: Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của liên hợp quốc. WHO: Tổ chức y tế thế giới NGO: Tổ chức phi chính phủ SKSS: Sức khỏe sinh sản DSKHHGĐ: Dân số kế hoạch hóa gia đình THPT: Trung học phổ thông. GDGT: Giáo dục giới tính TD: Tình dục LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ bản nhất; con người sống hạnh phúc là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ tổ quốc. Chăm sóc sức khỏe không chỉ là nhu cầu cuả mỗi cá nhân mà nó còn là mục tiêu cho sự pháp triển của xã hội. Hiện nay quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn ngày càng gia tăng, và những hậu quả tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá thai, có thai tuổi vị thành niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14, 15… tuổi, việc kết hôn sớm… xảy ta rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã hội như: tình trạng bệnh tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu kém nghiêm trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh giang mai, nhiễm HIV… và gây nên những tác hại lớn về kinh tế, xã hội, tâm lí… Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về văn hoá xã hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi, sinh hoạt thiếu lành mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ trường, nhậu nhẹt… là tình trạng khá phổ biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong đời sống của thanh thiếu niên và xã hội. Ngoài ra các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức tạp Trước tình hình đó, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục SKSS của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội” Nhằm mục đích nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và mong muốn đáp ứng đúng nhu cầu của học sinh trong việc cung cấp kiến thức sức khỏe sinh sản 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Công trình nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng hiểu biết của học sinh THPT về sức khỏe sinh sản, trong đó trọng tâm nghiên cứu về nhu cầu giáo dục chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh THPT. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp cụ thể để đáp ứng nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu việc về hiểu biết các kiến thức và nhu cầu tìm kiếm thông tin về sức khỏe sinh sản của học sinh cấp 3. Đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT. 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Thực trạng nhu cầu giáo dục chăm sóc SKSS của học sinh THPT. 5. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 5.1 Khách thể nghiên cứu: - 50 Học sinh THPT ở độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi ở trường THPT Trương Định _ Hoàng Mai_Hà Nội - 2 Thầy cô trong trường THPT Trương Định. 5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu : 2/2011 đến 5/2011 - Địa bàn khảo sát: Trường THPT Trương Định _Hoàng Mai_Hà Nội - Giới hạn về nội dung: - Nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá hiểu biết của học sinh THPT về kiên thức về sức khỏe sinh sản - Đánh giá nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh THPT. Mẫu nghiên cứu: - Kích thước mẫu: 50 phiếu điều tra học sinh trong trường THPT Trương Định. Trong đó có 34 (68%)bạn nữ và 16(28%) bạn nam - Phỏng vấn sâu: 2 giáo viên - Tọa đàm nhóm: nhóm 10 em nam và nhóm 10 em nữ. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp luận bao gồm các lý thuyết tâm lý học, tâm lý học pháp triển với sự các giai đoạn phát triển của con người: lý thuyết xã hội học, công tác xã hội cá nhân, nhóm, lý thyết nhu cầu của Maslow, thuyết phân tâm học của Freud. - Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: (PHỤ LỤC 1) Nhằm thu thập các thông tin về hiểu biết và nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh. - Phương pháp phỏng vấn sâu: 2 giáo viên trong trường THPT Trương Định nhằm mục đích tìm hiểu những hoạt động của nhà trường nhằm đáp ứng nhu cầu của học sinh đề tài nghiên cứu đi sát nhu cầu nguyện vọng thực sự của học sinh hiên nay. - Phương pháp thảo luận nhóm tập trung: Nhằm hiểu rõ hơn mong muốn và nguyện vọng của các em. Qua đó biết được quan niệm cách nghĩ của các em về một vấn đề sức khỏe sinh sản. - Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích các bảng phỏng vấn sâu; biên bản thảo luận nhóm và các tài liệu có liên quan. - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS để sử lý và lấy thông tin để thống kê một cách rõ ràng và khoa học Phương pháp chuyên gia: tham khảo các ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu đó là Th.s Đặng Phương Lan, Th.s Nguyễn Trung Hải và Th.s Đặng Huyền Trang tư vấn viên Tâm Sự Bạn Trẻ. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO HỌC SINH THPT 1.1Tổng quan về vấn đề nghiên cứu: 1.1.1Một số nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên trên thế giới Ở thế giới nghiên cứu về sức khỏe vị thành niên có mặt rất sớm nhưng được gọi với những cái tên khác nhau chẳng hạn sức khỏe vị thành niên hay giới tính tình dục thanh thiếu niên.Từ sau hội nghị quốc tế về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (4/1994) sau khi định nghĩa chính thức về về sức khỏe sinh sản được thống nhất phổ biến đến mọi quốc gia trên thế giới và là mối quan tâm của toàn xã hội. Vấn đề sức khỏe sinh sản được đẩy lên một trình độ mới Tại Châu Phi: Giáo dục sức khỏe sinh sản ở châu lục này tập trung vào việc đẩy lùi nạn dich AIDS và cố gắng thiết lập những chương trình giáo dục về AIDS hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các tổ chức phi chính phủ (NGO) Những chương trình này dạy cho họ và con em của họ các cách “ABC”. Với A để phòng chống AIDS. B - Chung thủy và C - Dùng bao cao su Ở Ai Cập, trẻ từ 12 – 14 tuổi được giáo viên giảng dạy những kiến thức giải phẫu sinh học như cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, cơ chế hoạt động, quan hệ tình dục, nguyên nhân có thai, các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục. Tại các quốc gia Châu Á: Indonesia, Mông Cổ, Hàn Quốc và Sri Lanka là những nước đã thực hiện chính sách riêng về giáo dục giới tính trong trường học về giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Tuy nhiên ở Bangladesh, Myanmar, Nepal và Pakistan thì không có những chương trình giáo dục giới tính như vậy. Đối với các quốc gia Châu Âu như Pháp, tháng 2/2000, Chính phủ Pháp quyết định đưa kiến thức giới tính lên đài truyền hình và sóng phát thanh, đồng thời phát khoảng 5 triệu tờ rơi cho học sinh phổ thông về các phương pháp tránh thai an toàn, hiệu quả. Tại Đan Mạch, cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã có chương trình truyền hình được Chính phủ tài trợ đã trở thành kênh thông tin quen thuộc về giới tính và sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên.Đan Mạch là nước có tỷ lệ trẻ vị thành niên mang thai thấp nhất thế giới và là hình mẫu “lý tưởng” cho các nước khác học tập cách thức giáo dục giới tính trong trường học. Các quốc gia ở Châu Mỹ: Các trường học đều đưa giáo dục giới tính vào chương trình học của học sinh lớp 7 - 12, có nơi bắt đầu từ lớp 5, lớp 6. Học sinh tiếp cận với kiến thức giới tính thuộc 2 kiểu: toàn diện kiến thức chung chiếm 58% hoặc kiến thức sâu về một khía cạnh, vấn đề chiếm 34%. Tuy nhiên, Mỹ lại là một trong những nước có tỷ lệ sinh ở trẻ vị thành niên cao nhất thế giới, tỷ lệ nhiễm bệnh qua đường tình dục ở thanh thiếu niên cũng là cao nhất. Điều này cho thấy người ta nên chú trọng vào phương pháp giáo dục hơn là xác định giáo dục ở cấp học nào (Theo giáo dục giới tính toàn cầu của trang tailieu.vn) 1.1.2 Một số nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số, giáo dục giới tính đã bắt đầu được quan tâm rộng rãi. Lứa tuổi THPT đang ở giai đoạn cuối thời kỳ dậy thì và đầu giai đoạn thanh niên nên các em có sự thay đổi mạnh mẽ về cả sinh lý và tâm lý. Bản thân các em chịu sự tác động của gia đình, thầy cô, bạn bè… Nếu các em được giáo dục định hướng đúng sẽ giúp các em phát triển đúng hướng và vượt qua những khó khăn trở ngại của cuộc sống. Các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên cho ra những kết quả sau: Ở Việt Nam vị thành niên từ 10 đến 19 tuổi theo tổng điều tra của dân số 1989 có 14.336 482 người (22,3% dân số), trong cuộc tổng điều tra biến đổi DSKHHGĐ năm 1993 số trẻ vị thàn niên là 23,2% số mẫu điều tra. Theo tổng điều tra năm 1999 vị thành niên là 17, 3 triệu người (22, 7% dân số) [10] theo niên giám thống kê dân số năm 2000 vị thành niên là 17 553 000 người (22,46% dân số). Như vậy vị thành niên chiếm ¼ dân số cả nước, cơ cấu dân số sẽ tiếp tục tăng trong vòng 15 năm nữa. Như vậy sẽ có thuận lợi là nguồn nhân lực trẻ sẽ tăng lên và trở thành một lực lượng dồi dào. Tuy nhiên đó cũng là một thách thức với một quốc gia đang phát triên như Việt Nam là các vấn đề xã hội sẽ trở thành một gánh nặng cho những người làm chính sách. Theo thống kê của Bộ Y tế, năm 2002 cả nước có 572.425 trường hợp nạo phá thai và năm 2003 là 540.377 trường hợp. Tỉ lệ phá thai trên tổng số sinh chung của toàn quốc là 52%. Trong đó vẫn còn khoảng 300.000 ca nạo phá thai ở vị thành niên, thanh niên [3] Trong nhiều năm giáo dục sức khỏe sinh sản đã có những sự quan tâm và nghiên cứu nhất định. Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng chương trình chính khoá và ngoại khoá nhằm bồi dương cho học sinh những kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước. Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản. Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12. Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới tính cho học sinh… Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh [6] Nhìn chung các đề tài nghiên cứu thường tập trung đi sâu vào tìm hiểu thực trạng hiểu biết về SKSS và thái độ hành vi của thanh thiếu niên về các kiến thức sức khỏe sinh sản. Những con số được đưa ra nêu trên cho thấy vấn đề giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản đóng vai trò rất quan trong trong mục tiêu phát triển con người Việt Nam, mà tập trung vào thế hệ trẻ, tương lai của đất nước. 1.2 Khái niệm chính: 1.2.1 Khái niệm nhu cầu: Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. (Theo Từ điển bách khoaViệt Nam) 1.2.2 Khái niệm Giáo dục: Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách cả thầy và trò bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người đương đại [1] 1.2.3 Khái niệm chung về sức khoẻ sinh sản Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa: Sức khoẻ là một trạng thái hoàn hảo cả về mặt thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hoặc tàn phế. Như vậy có thể thấy, khái niệm sức khoẻ là một khái niệm rộng hơn nhiều so với những quan niệm đơn giản như: sức khoẻ là có một cơ thể cường tráng, sức khoẻ là không ốm đau, sức khoẻ là người lành lặn, không bị tàn phế… Định nghĩa này tương đối tổng thể, tuy nhiên chưa thể hiện hết tính năng động của vấn đề sức khoẻ. Tôi chú trọng quan điểm của Michael Wilson, trong đó sức khoẻ bao hàm những lĩnh vực sau: Sức khoẻ thể chất: liên quan đến chức năng cơ học của cơ thể. Là thước đo nền tảng của sức khoẻ. Sức khoẻ tâm thần: liên quan đến khả năng tư duy, độ minh mẫn trí tuệ Sức khoẻ cảm xúc: liên quan đến các cảm xúc: sợ sệt, buồn bã, giận dữ, vui vẻ, nó còn liên quan tới khả năng đương đầu với stress. Sức khoẻ về tâm linh: liên quan tới tín ngưỡng, và những nguyên tắc ứng xử. Nguyên tắc này giúp đạt được sự cân bằng tâm trí và sự an lạc cho bản thân. Sức khoẻ về môi trường xã hội: là quan hệ của con người với môi trường xã hội mà con người đang tồn tại. Tương tự như vậy, sức khoẻ sinh sản là trạng thái khoẻ mạnh, hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình sinh sản chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hay tổn thương ở bộ máy sinh sản. Sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó có cả khía cạnh liên quan đến sức khoẻ tình dục. Hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình sinh sản của con người được hình thành, phát triển, và tồn tại trong suốt cuộc đời. Sức khoẻ sinh sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với cả nam giới và nữ giới. Quá trình sinh sản và tình dục là một quá trình tương tác giữa hai cá thể, nó bao hàm sự tự nguyện, tinh thần trách nhiệm và sự bình đẳng. Các nội dung SKSS ưu tiên chung của quốc gia : + Quyền sinh sản + Kế hoạch hóa gia đình + Làm mẹ an toàn + Phòng tránh thai, phá thai an toàn + Phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, lây qua đường tình dục và HIV/AIDS + Chăm sóc SKSS vị thành niên + Bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này nội dung được đề cập chủ yếu là giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên (Theo tổ chức y tế thế giới WHO) 1.2.5 Khái niệm học sinh THPT: Theo từ điển Tiếng Việt học sinh là những người học tập trung ở trường Trong đề tài nghiên cứu này, khía niệm học sinh THPT là chỉ học sinh từ 15-18 tuổi đây là độ tuổi có nhiều biến đổi mạnh mẽ về cả tâm và sinh lý, có nhiều quan niệm mới và hành động mới. Đặc điểm chung của học sinh THPT Học sinh THPT là những em ở độ tuổi 16_18 tuổi, các em đã có sự thay đổi to lớn về tâm sinh lý và tình cảm đặc biệt là tâm lý “Muốn làm người lớn”. Đây là lứa tuổi đã trải qua tuổi dậy thì và đang ở giai đoạn đầu thanh niên. Ở độ tuổi này các em đã bắt đầu có sự rung cảm mạnh mẽ trước các bạn khác giới, bản thân cấu tạo cơ thể đang trong quá trình hoàn thiện nên các em có rất nhiều thắc mắc cần tháo gỡ. Khái quát chung đặc điểm của học sinh THPT là: - Sự phát triển về mặt sinh lý: + Về hệ thần kinh: cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh đi vào hoàn thiện nên các chức năng như tư duy, ngôn ngữ và các phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển + Về mặt hình thể: chiều cao cân nặng đã chậm lại, sức bần, sức mạnh được tăng cường + Về mặt giới tính: cơ thể các em đã có sự thay đổi rõ rệt do đa phần các em đã trải qua tuổi dậy thì Sự phát triên về mặt xã hội: + Trong gia đình: các em sống có trách nhiệm hơn và ở độ tuổi này gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tính cách của con trẻ. + Ở nhà trường: các em có thái độ tự giác hơn, do đó hoạt động học tập mang ý nghĩa trực tiếp đến các em. + Ở xã hội: các em chủ động trong việc tham gia giao tiếp, có ý thức trách nhiệm trong việc lựa chọn ngành nghề tương lai và nhận thức được ý nghĩa cũng như tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Sự phát triển về mặt nhu cầu: + Nhu cầu giao tiếp: quan hệ với bạn bè chiếm vị trí quan trọng nhất, các em nhìn thấy bản thân qua bạn bè và được khẳng định qua nhóm. Cùng với sự thay đổi mối quan hệ dựa dẫm cha mẹ đã dần thành quan hệ bình đẳng và tự lập. Khi trẻ tham gia nhiều nhóm xã hội việc xác lập giá trị bản thân và bản thân cũng xảy ra sự xung đột vai trò xã hội. + Nhu cầu xác định vị trí xã hội: Đây chính là nhu cầu tự khẳng định mình như được bình đẳng trước pháp luật, tham gia các hoạt động đoàn thế xã hội, các em có nhu cầu được xã hội thừa nhận về thủ tục hành chính và việc thực hiện quyền đó.Biểu hiện của nhu cầu này là: * Các em quan tâm đến tình hình kinh tế chính trị xã hội trong và ngoài nước * Sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội theo hướng thú và sở thích - Sự phát triển nhân cách: + Sự phát triển của sự tự ý thức : là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của lứa tuổi này. Các em ý thức được sự phát triển của cơ thể, hình thành hình ảnh về bản thân. Từ sự tự ý thức phát triển thì sự tự đáng giá cũng phát triển, ở lứa tuổi này cac em có xu hướng cường điệu khi đánh giá, hoặc đánh giá thấp cái tích cực, tập chung phê phán cái tiêu cực hoặc đánh giá quá cao bản thân mình. Do đó những người giáo dục cần chú trọng đền việc giúp đỡ các em hình thành biểu tượng đúng đắn về bản thân Tóm lại ở độ tuổi này các em đã có vài nét về người lớn nhưng vẫn chưa thực sự là người lớn. Do đó bản thân gia đình, nhà trường và xã hội cần hỗ trợ để định hướng cho các em có thể phát triển một cách toàn diện nhất. 1.2.6 Khái niệm nhu cầu giáo duc SKSS cho hoc sinh THPT: Như vậy nhu cầu giáo dục SKSS cho học sinh THPT là mong muốn tìm hiểu, tiếp cận các kiến thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh phổ thông từ 15- 18 tuổi, nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của học sinh về SKSS. 1.3Các khái niệm liên quan: 1.3.1 Khái niệm về giới: Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Giới là phạm trù vai trò, phẩm chất và mối quan hệ giữa giới nam và giới nữ, nói đến giới là nói đến cách phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt các vấn đề thể chế và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay một phụ nữ nào. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được. (Theo:  1.3.2 Khái niệm giáo dục giới tính: Giáo dục giới tính là hoạt động cung cấp những thông tin khoa học về giới tính, về cách ứng xử trong q
Luận văn liên quan