Đề tài Thực trạng những quy định về người bào chữa ở nước ta hiện nay

Kể từ khi giành độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự, nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của pháp luật tố tụng hình sự là bị can, bị cáo, các hoạt động tố tụng hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hoặc nhờ người bào chữa. Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề “ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

doc17 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng những quy định về người bào chữa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Kể từ khi giành độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự, nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của pháp luật tố tụng hình sự là bị can, bị cáo, các hoạt động tố tụng hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử…của các cơ quan tiến hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hoặc nhờ người bào chữa. Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề “ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! I/ Khái Quát Chung. 1.1) Khái Niệm. Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 1.2) Phân loại. Theo quy định tại khoản 1 điều 56 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. - Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật và tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp - Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo : là cha cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần - Bào chữa viên nhân dân : có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư các là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho người bào chữa. II/ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự Cùng với quá trình phát triển của đất nước, đảng ta đã xác định mở rộng dân chủ và đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống là cần thiết. BLTTHS năm 1988 trong quá trình thi hành gần 15 năm qua, đã được sửa đổi bổ sung ba lần ( 6/1990, 12/1992 và 6/2000). Hiện nay, thực hiên chủ trương cải cách tư pháp trong đó những vấn đề liên quan đến người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào chữa đã được các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2/1/2002 của bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng ta đã xác định : Phải cụ thể hóa các quy định của hiến pháp năm 1992 về người bào chữa và thể chế hóa các chủ trương đó thành những luật định cụ thể, sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bộ Luật TTHS năm 2003 đã được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 thay thế BLTTHS năm 1988. Bộ Luật TTHS 2003 quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Dưới đây là phần trình bày về địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và trong đó sẽ có những so sánh, những điểm mới hơn so với BLTTHS năm 1988 để người đọc hiểu rõ hơn. 2.1) Quyền của người bào chữa So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung về quyền của người bào chữa thể hiện trước hết ở quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa: Trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc này giúp cho người bào chữa được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể bào chữa cho bị can ở gian đoạn sau của quá trình TTHS Tại khoản 2, điểm a, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) : người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong văn bản lời khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà sau này cơ quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội… để yêu cầu thân chủ khai lại giải thích lại hoặc đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình trạng sau này khi đã có chữ ký xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ. Quy định như vậy, là mở rộng sự tham gia của người bào chữa vào trong các hoạt động điều tra , điều này không những thể hiện tính dân chủ công khai trong hoạt động điều tra mà còn giúp cho cơ quan điều tra và cụ thể là điều tra viên nâng cao trình độ của mình. Vì thế khi điều tra viên hỏi cung hoặc lấy lời khai của bị can, bị cáo mà có luật sư bào chữa ( người am hiểu pháp luật ) ngồi bên cạnh thì những câu hỏi, cách hỏi và cách viết biên bản cũng phải cẩn thận cho đúng pháp luật hơn. Tại khoản 2, điểm b, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) có quy định: người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định quyền này tạo điều kiện để người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình khi thấy cần thiết. Tại khoản 2, điểm c, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) quy định : người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của bộ luật này. Người bào chữa nếu có căn cứ chứng minh việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. Tiếp đó là những quy định về quyền thu nhập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa không thể chỉ dựa vào chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được; Vì vậy, người bào chữa phải có quyền tự mình đi thu nhập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của người bào chữa như quyền gặp bị can, bị cáo, quyền có mặt khi hỏi cung bị can , bị cáo. Sau khi gặp và có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm những tình tiết mới hoặc bị can , bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng, vật chứng ( tài liệu, đồ vật ) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo. Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu ( khoản 2, điểm đ, điều 58 ) theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam ( khoản 2, điểm e, điều 58, BLTTHS năm 2003 ). Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu nhập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa.( khoản 2, điểm g, điều 58 ) Quy định này đã loại bỏ được quy định chỉ mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước đây của BLTTHS năm 1988 “ có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra” ( điều 26 BLTTHS năm 1988 ). Theo cách quy đinh của BLTTHS năm 1988, thì mỗi cơ quan tiến hành tố tụng lại có thể hiểu khác nhau: ở giai đoạn xét xử, một số toàn án không cho người bào chữa photocopy tài liệu có trong hồ sơ vì lấy lý do BLTTHS năm 1988 chỉ cho phép đọc và ghi chép hồ sơ chứ không cho sao chụp tài liệu, nhưng cũng có một số tòa án khác cho phép sao chụp ( chủ yếu là do người bào chữa phải có quan hệ tốt với tòa án nên mới được linh động như vậy). Những tồn tại này, đã được BLTTHS năm 2003 sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn rất nhiều và làm cho việc nghiên cứu hồ sơ của người bào chữa được thực tế hơn; phù hợp với thông lệ của pháp luật TTHS trên thế giới; bảo đảm tối đa quyền nghiên cứu tiếp cận hồ sơ của người bào chữa đó là quyền được sao chụp những tài liệu hồ sơ liên quan đến việc bào chữa; qua đó giúp người bào chữa được thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu và tìm hiểu hồ sơ vụ án để chuẩn bị bào chữa nhất là trong các vụ án lớn có số tài liệu và bút lục nhiều. Trong giai đoạn xét xử, người bào chữa có quyền tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa ( khoản 2, điểm h, điều 58 BLTTHS năm 2003 ). Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận , người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Trong hoạt động tố tụng , luôn có sự tranh luận, phản bác giữa các bên đối kháng khác nhau; hạn chế đến mức thấp nhất các biểu hiện tiêu cực ( như sự tùy tiện và lạm dụng quyền của CQTHTT, tính võ đoán của các phán quyết …). Quy định tranh luận dân chủ được thể hiện rất rõ : Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa phải có ý kiến, luận cứ từng điểm một bằng những chứng cứ pháp luật về những điều mà luật sư, bị cáo đưa ra. Những quy định như vậy đảm báo cho quyền tranh luận của người bào chữa được thực quyền hơn, và kiểm sát viên khi đuối lý không thể chỉ trả lời một câu chung chung đối lập với những lập luận của người bào chữa như trước đây “ Tôi giữ nguyên quan điểm đã phát biểu trước tòa ” Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa, người bào chữa còn có quyền xem vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án ( khoản 4 điều 209BLTTHS năm 2003 ); hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa; hỏi thêm về những điểm mà người bi hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn ( điều 210 BLTTHS năm 2003 ). Để đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện, không thể thiếu được sự giám sát, kiểm tra đối với các quyết định cũng như hành vị tố tụng của các CQTHTT. Vì vậy BLTTHS năm 2003 đã quy định người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vị tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; và đồng thơi cũng có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 điều 57 của BLTTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cao không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. Trong BLTTHS năm 2003, đối tượng mà người bào chữa được quyền khiếu nại không chỉ là “ quyết định tố tụng ” mà còn là “ hành vị tố tụng ” của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây cũng là điểm tiến bộ so với những quy định của BLTTHS năm 1988. Nghĩa vụ của người bào chữa Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sang tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu nhập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và CQTHTT phải được lập biên bản theo quy định của BLTTHS( khoản 3, điểm a, điều 58 BTTHS năm 2003). Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.(khoản 3, điểm d, điều 58 BLTTHS năm 2003) Đây là quy định đã giải tỏa được một số quan điểm hiện nay vẫn còn đang thắc mắc là : Mục đích của người bào chữa là bảo vệ thân chủ của mình có mâu thuẫn với việc tuân thủ pháp luật bảo vệ pháp chế hay không? Điều luật quy định như vậy đã giải quyết được vấn đề trên, tức là người bào chữa tham gia bào chữa cho thân chủ của mình nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự thật. tránh trường hợp bào chữa chỉ có mục đích duy nhất là bảo vệ cho thân chủ của họ, để làm nhẹ tội cho thân chủ nên tìm mọi cách, biện pháp kể cả hợp pháp hay không hợp pháp. Ngoài ra theo khoản 3, điểm b, c , điều 58, BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa còn có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. Tiếp đó, để đảm bảo việc có mặt của người bào chữa tại phiên tòa, thì Luật đã quy định người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án (khoản 3, điểm đ, điều 58 ). Một khi đã nhận tham gia TTHS để bào chữa cho thân chủ, người bào chữa phải thấy được tham dự phiên tòa vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi để qua đó mình thể hiện khả năng kiến thức chuyên môn của mình, đồng thời chứng tỏ vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo. Tránh tình trạng trong một số trường hợp tòa án cứ phải hoãn phiên tòa do vắng mặt người bào chữa như quy định tại đoạn 2, điều 190 BLTTHS năm 2003. Hơn nữa, quy định về nghĩa vụ này của người bào chữa cũng giúp đảm bảo hơn nữa quyền của bị can, bị cáo, bởi vì hiện nay theo tinh thần cải cách tư pháp, và theo những quy định mới của BLTTHS năm 2003 tại điều 184 “ bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa ” thì việc người bào chữa có mặt tại phiên tòa là rất cần thiết; bởi vì tại phiên tòa, quá trình xét hỏi và tranh luận rất có thể sẽ có thêm những tình tiết mới có lợi cho bị cáo. Nếu người bào chữa không đến dự phiên tòa mà chỉ gửi bản bào chữa dựa trên những chứng cứ của hồ sơ vụ án thì hiệu quả công việc bào chữa sẽ không cao. Theo BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 4 và điểm e, khoản 3 , điều 58 về nghĩa vụ của người bào chữa : không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích chung hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. III/ Thực trạng những quy định về người bào chữa ở nước ta hiện nay. BLTTHS năm 2003 với những quy định mới đã thể hiện được tính khách quan minh bạch của hoạt động tố tụng hình sự, phù hợp với công cuộng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. BLTTHS năm 2003 đã cơ bản thể hiện được tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về cải cách tư pháp trong những quy định về người bào chữa. Tuy nhiên, trong BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số quy định chưa khắc phục được hoàn toàn những hạn chế của BLTTHS năm 1988, một số quy định mới mặc dù rất tiến bộ nhưng chưa quy định rõ trách nhiệm thực hiện những quy định đó như thế nào giữa các CQTHTT và Người THTT, có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một quy định, nên các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khó có thể đảm bảo được thực hiện đúng như quy định của điều luật. Các CQTHTT thường giải thích và hiểu theo cách có lợi cho họ và gây khó khăn cho công việc của người bào chữa. Hơn thế nữa, hoạt động bào chữa, cũng như những quy định của pháp luật về người bào chữa hiện nay, mặc dù được ban hành sau, nhưng phần nào vẫn chưa thể hiện được đầy đủ tình thần cải cách tư pháp trong nghị quyết số 08-NQ/TW đã đề ra. Việc đánh giá các quy định hiện hành và hoạt động của người bào chữa hiện nay là vô cùng cần thiết, tiến tới hoàn thiện những quy định hiện thời của BLTTHS năm 2003 nhằm thể hiện được hết tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về công cuộc cải cách tư pháp nói chung và những quy định về người bào chữa nói riêng, giúp cho việc giải thích hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 sau này được thống nhất, phát huy được những tư tưởng tiến bộ trong những quy định của điều luật, nêu ra những hạn chế và phương hướng giải quyết. IV/ Phương hướng phát triển và hoàn thiện những quy định về người bào chữa. Vấn đề đảm bảo sao cho người bào chữa thực hiện được những quyền mà pháp luật TTHS quy định là hết sức cần thiết cho việc đảm bảo dân chủ trong hoạt động TTHS trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, cần phải tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ nhằm làm cho những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được thực hiện trong thực tế một cách hợp lý, tránh hình thức. Cần giải thích và hướng dẫn thống nhất các quy định hiện hành của BLTTHS năm 2003 để hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của người bào chữa cũng như thay đổi cách nhìn nhận của người dân về hoạt động bào chữa và sự tham gia của người bào chữa vào TTHS. Hiện nay mặc dù pháp luật TTHS nước ta đã có những quy định hết sức tiến bộ, đề cao vị trí và vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa nhưng việc áp dụng và triển khai thực hiện trong thực tế vẫn còn nhiều bất cập hạn chế cần phải khắc phục để người bào chữa thực sự phát huy hiệu quả của mình trong hoạt động bào chữa. Cần có những quy định cụ thể về cơ chế trách nhiệm của CQTHTT bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền và trách nhiệm của họ. Để làm được các vấn đề trên, cần tập trung vào giải quyết một số công việc sau : - Về pháp luật : Trước hết, cần nghiên cứu và bổ sung những quy định cần thiết để khắc phục những bất hợp lý trong những quy định của pháp luật ( như những phân tích về các quy định của pháp luật về người bào chữa ), đảm bảo cho những