Hiện nay, nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng đối với nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Nợ công của nhiều quốc gia đã vượt quá cao so với ngưỡng
an toàn: Nhật (200%GDP), Mỹ với khoản nợ 14.580,7 tỷ USD tính đến thời điểm
tháng 8/2011 đã vượt quá 100%GDP năm 2010; nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu
(EU) có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60% GDP- mức giới hạn an toàn mà EU đưa ra;
nguy cơ vỡ nợ công ở Hy lạp (152%GDP), Italy (120% GDP), Tây Ban Nha cũng đã
lan tỏa và có những tác động tiêu cực tới những quốc gia hàng đầu EU khác như: Đức
(82%GDP), Pháp (92% GDP), Anh (80%) . Dù gần đây có vài tín hiệu tích cực cho thấy
Chính phủ đang tiến hành cắt giảm đầu tư công và giảm bội chi ngân sách nhưng tỷ lệ nợ công
trên GDP của Việt Nam v ẫn tiếp tục tăng lên trong khi kinh tế thì tăng trưởng chậm lại GDP.
Từ 1997- 1988, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ so với GDP ngày càng tăng, từ
mức 21,6% nhưng đến năm 2009 lên đến 33,4% và năm 2010 là 32,15%. Nợ
công của Việt Nam đã được Bộ Tài Chính tính toán vào năm 2011 ở mức khoảng
1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Trong khi đó các khoản thu ngân sách
hàng năm của Chính phủ luôn chiếm tỷ lệ thấp hơn trong GDP so với chi tiêu. Tỷ lệ chi
tiêu so với GDP tăng lên đồng nghĩa với nhu cầu chi tiêu của Chính phủ tăng nhanh hơn
mức GDP. Qua đó ta thấy nhu cầu chi tiêu của Chính phủ luôn có xu hướng tăng nhanh
hơn lượng của cải mà nền kinh tế có khả năng tạo ra. Mặc dù chỉ số nợ công trên vẫn
được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và kế hoạch
quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công
trong tương lai là điều có thể xảy ra. Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn
định của nền kinh tế toàn thế giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu
cũng đã được đặt ra. Lựa chọn giải pháp vay nợ để bù đắp thiếu hụt ngân sách và đáp
ứng nhu cầu chi tiêu công như thế nào để mang lại hiệu quả tối ưu cho nền kinh tế đất
nước là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Để góp phần
tìm ra một phần đáp án cho bài toán kinh tế trên, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Thực
trạng nợ công tại Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2012”
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7334 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng nợ công tại Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 1
PHẦN MỞ ĐẦU
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng đối với nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Nợ công của nhiều quốc gia đã vượt quá cao so với ngưỡng
an toàn: Nhật (200%GDP), Mỹ với khoản nợ 14.580,7 tỷ USD tính đến thời điểm
tháng 8/2011 đã vượt quá 100%GDP năm 2010; nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu
(EU) có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60% GDP- mức giới hạn an toàn mà EU đưa ra;
nguy cơ vỡ nợ công ở Hy lạp (152%GDP), Italy (120% GDP), Tây Ban Nha cũng đã
lan tỏa và có những tác động tiêu cực tới những quốc gia hàng đầu EU khác như: Đức
(82%GDP), Pháp (92% GDP), Anh (80%) . Dù gần đây có vài tín hiệu tích cực cho thấy
Chính phủ đang tiến hành cắt giảm đầu tư công và giảm bội chi ngân sách nhưng tỷ lệ nợ công
trên GDP của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lên trong khi kinh tế thì tăng trưởng chậm lại GDP.
Từ 1997-1988, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ so với GDP ngày càng tăng, từ
mức 21,6% nhưng đến năm 2009 lên đến 33,4% và năm 2010 là 32,15%. Nợ
công của Việt Nam đã được Bộ Tài Chính tính toán vào năm 2011 ở mức khoảng
1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Trong khi đó các khoản thu ngân sách
hàng năm của Chính phủ luôn chiếm tỷ lệ thấp hơn trong GDP so với chi tiêu. Tỷ lệ chi
tiêu so với GDP tăng lên đồng nghĩa với nhu cầu chi tiêu của Chính phủ tăng nhanh hơn
mức GDP. Qua đó ta thấy nhu cầu chi tiêu của Chính phủ luôn có xu hướng tăng nhanh
hơn lượng của cải mà nền kinh tế có khả năng tạo ra. Mặc dù chỉ số nợ công trên vẫn
được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và kế hoạch
quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công
trong tương lai là điều có thể xảy ra. Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn
định của nền kinh tế toàn thế giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu
cũng đã được đặt ra. Lựa chọn giải pháp vay nợ để bù đắp thiếu hụt ngân sách và đáp
ứng nhu cầu chi tiêu công như thế nào để mang lại hiệu quả tối ưu cho nền kinh tế đất
nước là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Để góp phần
tìm ra một phần đáp án cho bài toán kinh tế trên, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Thực
trạng nợ công tại Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2012”.
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 2
II. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích, đánh giá tình hình nợ công cũng như mức độ an toàn nợ công của Việt
Nam trong giai đoạn 2007 đến 2012, qua đó đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn nợ
nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Các lý luận cơ bản về nợ công và quản lý nợ công
- Đánh giá thực trạng nợ công Việt Nam trong giai đoạn 2007 đến 2012.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản đảm bảo an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai
đoạn sắp tới.
1.3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nợ công tại Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Thời gian từ năm 2007 đến hết năm 2012
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá các chỉ số đánh giá an toàn nợ
trong mối quan hệ với các biến số vĩ mô. Từ đó làm rõ thực trạng nợ công của Việt Nam.
- Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu về tình hình nợ công ở Việt nam với
tình hình nợ nước ngoài của các nước khác.
- Phương pháp dự báo tính đến các rủi ro như lãi suất, tỷ giá... của những năm sắp tới để
đánh giá an toàn nợ công của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Khái quát về nợ công
Nợ công là gì? Một cách khái quát, nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng gi
á
trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm
tài trợcho các khoản thâm hụt ngân sách. Vì thế, nợ công là thâm hụt ngân sách luỹ kế tín
hđến một thờiđiểm nào đó. Thông thường khoản nợ này được đo bằng bao nhiêuphần tră
m so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ công bao gồm :
a. Nợ Chính phủ
Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành
nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký
kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không ba
ogồm khoản nợ doNgân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
b. Nợ đƣợc Chính phủ bảo lãnh
Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài
được Chính phủ bảo lãnh.
c. Nợ chính quyền địa phƣơng
Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Trong đó, nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ,
nợ được Chính phủ bảo lãnh,
nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác được vay theo phương thức tự vay, tự trả theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2. Quản lý nợ công
Quản lý nợ công là một tiến trình lập và thực hiện chiến lược quản lý nợ của một quốc gi
a nhằm tạo được lượng vốn theo yêu cầu, đạt được các mục tiêu rủi ro và chi phí cũng nh
ư các mục tiêu khác mà Nhà nước đặt ra. Trong khuôn khổ kinh tế vĩ mô, vấn đề quan trọ
ng nhất của quản lý nợ công là Chính phủ phải đảm bảo quy mô và tốc độ tăng trưởng củ
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 4
a nợ công phải bền vững, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau mà
vẫn đáp ứng được các mục tiêu về rủi ro và chi phí.
1.3. Ý nghĩa của việc quản lý nợ công
a. Tạo sự phối hợp nhịp nhàng và sự dung hòa tối ƣu về mục đích với các bộ phận
của chính sách kinh tế vĩ mô
Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ với chính sách quản lý
nợ công là hết sức cần thiết. Hậu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô không hợp lý
thường đem lại những cơ cấu nợ đầy rủi ro; ngược lại, chính sách quản lý nợ công cũng
ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của Chính phủ.
Trong một số trường hợp mâu thuẫn giữa chính sách quản lý nợ công và chính sách tiền t
ệcũng có thể nảy sinh các quan hệ khác nhau và đối với công tác quản lý nợ tập trung
vào việc hoán đổi giữa chi phí và rủi ro, trong khi chính sách tiền tệ lại hướng đến đạt
được sự ổn định về giá cả. Chính sách quản lý nợ công tốt sẽ tạo điều kiện để dung hòa
tối ưu mâu thuẫn nói trên.
b. Cải thiện tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế
Chính sách quản lý nợ công ảnh hưởng trực tiếp đến mức vay nợ nước ngoài. Nếu mức v
ay nợ nước ngoài gia tăng trước mắt sẽ làm dồng nội tệ tăng giá, từ đó gây bất lợi đến
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu lại tăng do giá nhập khẩu trở nên rẻ hơn, kết quả là làm
trầm trọng hơn tình trạng của cán cân vãng lai. Xét về lâu dài, gia tăng vay nợ nước ngoài
sẽ tạo áp lực lớn đối với cán cân thanh toán quốc tế và nguy cơ khủng hoảng nợ. Mặc dù,
chính sách quản lý nợ công chưa hẳn đã là nguyên nhân duy nhất, thậm chí đó chưa hẳn
là nguyên nhân chính đưa đến các cuộc khủ ng hoảng nợ, nhưng cơ cấu nợ bất hợp lý đã
góp phần làm cho khủng hoảng này thêm trầm trọng. Ngay cả khi có môi trường chính
sách kinh tế vĩ mô tốt, các biện pháp đầy rủi ro trong quản lý nợ công sẽ làm tăng khả
năng gây tổn thương của nền kinh tế đối với các cú sốc kinh tế - tài chính từ môi
trường bên ngoài.
3.3. Ổn định kinh tế - tài chính trong nƣớc
Khủng hoảng kinh tế tại nhiều nước cho thấy, nợ không được cơ cấu tốt về thời hạn thanh
toán, tiền tệ và lãi suất, cùng các công nợ bất thường và không có nguồn chi trả là một
trong những nguyên nhân quan trọng. Trên thực tế, dù ở cơ chế lãi suất nào, dù vay
nợ bằng nội tệ hay ngoại tệ, khủng hoảng thường nảy sinh khi nhà nước quá tập trung vào
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 5
việc tiết kiệm chi phí đối với một lượng lớn các khoảng vay ngắn hạn. Và kết quả là uy
tín tín dụng của quốc gia bị giảm sút khi phải chuyển hạn nợ. Tương tự như thế
, phụ thuộc quá nhiều vào nợ ngoại tệ có thề dẫn đến những áp lực về tỷ giá và tiền tệ.
Mặt khác, nợ công thường là danh nợ lớn nhất của một quốc gia, ảnh hưởng rất lớn đến
tình hình ổn định tài chính trong nước. Nếu hoạt động quản lý nợ công không hợp
lý, chính phủ vay nợ trong nước quá nhiều thì phấn vốn cung ứng cho khu vực công nghi
ệp và dân cư sẽ giảm sút. Hậu quả là gây ra sự mất cân đối trong đầu tư giữa khu vực
công và khu vực tư; mặt khác sẽ làm cho lãi suất tín dụng tăng lên do cạnh tranh trong
hoạt động huy động vốn giữa hai khu vực công và khu vực tư và khi đó
lãi suất tín dụng tăng lại chèn ép đầu tư của khu vực tư. Mộtchính sách quản lý nợ công t
ốt có thể làm giảm sự lây nhiễm và rủi ro tài chính thông qua việc tạo điều kiện phát triển
thị trường tài chính.
Chẳng hạn, thị trường các chứng khoán nợ trong nước phát triển có thể ttthay thế cho tài t
rợ từ ngân hàng khi nguồn này cạn đi và ngược lại, giúp cho nền kinh tế phát triển vả có
thể chịu được các cú sốc tài chính. Do nợ công tác động lớn đến cán cân thanh toán quốc
tế, sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia cùng với tính hiệu
của chính sách tài khóa và tiền tệ, nên chính sách quản lý nợ công trở nên được ưu tiên hà
ng đầu đối nhiều nền kinh tế đang chuyển đồi từ những năm đầu của thập niên 80. Khi kh
ủng hoảng nợ xảy ra vào năm 1982, chính phủ nhiều nền kinh tế khác trên thế giới đã
quyết định thực hiện chính sách quản lý nợ công với đặt điểm nồi bật là tập trung kiểm
soát nợ nước ngoài với những kỳ hạn khác nhau ví dụ như các khoản nợ có kỳ hạn
trung và dài hạn trực tiếp của khu vực công, ít có chú ý đến kiểm soát các khoản nợ công
được sự bảo lãnh cho khu vực tư và các khoản nợ ngắn hạn.
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 6
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2007 – 2012
2.1. Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012
2.1.1. Tình hình nợ công tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012
Bảng 1. Số liệu nợ công của VN giai đoạn 2007-2012 (USD)
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 6 tháng đầu
2013 Tổng công nợ 29.951.506.8
49
37.210.655.7
38
42.741.369.8
63
47.999.178.0
82
48.771.204.7
30
67.674.000.00
0
74.294.000.000
Nợ công/người 353,15 434,43 494,47 550,52 760 756,9 826,4
Nợ công/GDP 47,00% 49,60% 49,40% 56,30% 54,9% 55,7% 48,9%
Thay đổi 22,60% 24,20% 14,90% 12,30% 14% 11,2% 12,2%
Nguồn: www.vov.vn
Bảng 1 cho thấy nợ công tăng nhanh về giá trị tuyệt đối cũng như mức nợ bình quân trên
đầu người, tỷ lệ nợ công trên GDP. Theo số liệu Bộ Tài chính ta thấy năm 2007 nợ công
khoảng 29 tỷ USD chiếm 47% GDP. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm vào năm 2012 nợ công của
Việt Nam vào khoảng 67,6 tỷ USD, tương đương 50% GDP, tăng 11,2% so với năm
2011. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam đang là 756,9 USD.
Nợ nước ngoài và nợ trong nước của Chính phủ có xu hướng gia tăng, việc phát hành
trái phiếu chính phủ thành công cùng với việc thu hút vốn ODA từ nước ngoài làm cho
tổng mức nợ nước ngoài của Chính phủ tăng lên trung bình đạt 30% GDP trong suốt giai
đoạn 2007-2012 và sẽ tăng mạnh trong tương lai.
Trong bối cảnh lạm phát liên tục tăng cao, chính sách tiền tệ để ổn định ngoại hối sẽ
khó khăn hơn khi phải đánh đổi giữa nghĩa vụ nợ tăng lên, hay bào mỏng dự trữ để
can thiệp. Bởi, cùng với trách nhiệm trả nợ thì Chính phủ còn phải cân nhắc đến khả
năng tăng thu ngân sách, khi mà tỷ trọng thu so với GDP đã cao và tình hình kinh tế
trong ngắn hạn chưa cho thấy triển vọng phục hồi mạnh mẽ. Về cơ cấu nợ, 46,66%
trong số 32,5 tỷ USD này là nợ song phương, 44,59% là nợ đa phương, còn lại là nợ do
phát hành trái phiếu, nợ các ngân hàng thương mại và các chủ nợ tư nhân khác.
Theo Bộ Tài chính, tổng số nợ nước ngoài của VN (chỉ bao gồm nợ Chính phủ trung
ương, địa phương và nợ do Chính phủ bảo lãnh) tính đến cuối năm 2010 đã vượt 32,5 tỷ
USD, từ con số gần 27,93 tỷ USD trong năm trước đó. Điều đó cũng có nghĩa, trong
vòng 1 năm, khối nợ nước ngoài của VN đã gia tăng thêm gần 4,6 tỷ USD. Trong khi đó,
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 7
nếu tính cả khoản trả nợ gốc trong năm gần 1,06 tỷ USD, ước tính trong năm 2010, VN
đã thông qua các hiệp định, hợp đồng vay nợ tổngcộng xấp xỉ 5,6 tỷ USD, tương đương
khoảng 5,3% GDP cùng năm (theo ước tính của Tổng cục Thống kê vào khoảng 104,6 tỷ
USD). Năm 2010, dự trữ ngoại hối cũng ghi nhận sự sụt giảm lớn, theo một số ước tính
có thể lên đến 4 tỷ USD, còn năm 2009 trước đó thì ghi nhận mức thâm hụt tới 8,8 tỷ
USD. Ngoài ra, khía cạnh đánh đổi giữa tăng trưởng đạt thấp trong năm ngoái (6,78%)
với những rủi ro tăng lên cùng khối nợ nước ngoài nở rộng nhanh cũng là điểm cần
xem xét.
2.1.2. Đánh giá tình hình nợ công
Đánh giá về mức độ nợ là số liệu quan trọng trong việc quản lý nợ, trước năm 2009
chúng ta chưa có thông tư quy định nào liên quan đến nợ công, việc quản lý còn mang
tính hình thức các tính toán theo cách cũ và khôngthể so sánh với thông lệ thế giới. Từ
năm 2009, dự thảo Luật Quản lý nợ công và các thông tư hướng dẫn được Chính phủ ban
hành và có hiệu lực 1/1/2010 đã ban hành các quy định liên quan đến việc xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ công và quy định việc chia sẻ thông tin đảm bảo
duy trì nợ công ở mức an toàn. Hiệu quả quản lý nợ công trước hết được đánh giá qua
tính ổn định nợ công. Có nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô có thể cho đánh giá dự báo về nợ
công.
Nợ công và nợ nước
ngoài trong giai đoạn
2007 – 2012 được biểu
diễn bằng đường gấp
khúc. Ta thấy nợ công
trong giai đoạn này có
xu hướng tăng chậm tuy
nhiên mức nợ đã tiệm
cận giới hạn 50% GDP
và có khả năng sẽ vượt
qua giới hạn này trong năm tiếp theo 2010 – 2020 khi mà nhu cầu về vốn đầu tư phục vụ
cho quá trình công nghiệp hóa phát triển đất nước là rất lớn. Tuy nhiên, về tổng thể cơ cấu
nợ của VN tương đối ổn định, đồng tiền nợ chủ yếu là đồng Yên và SDR là những đồng
0
10, 0,000,000
20,000,000,000
30,000,000,000
40,000,000,000
50,000,000,000
60,000,000,000
7 ,000,000,000
80,000,000,000
20
07
20
08
20
09
20
10
20
11
20
12
6 t
há
ng
d
au
20
13
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 8
tiền tương đối ổn định nên khả năng gặp rủi ro tỷ giá là ít, nợ trong nước đang có xu
hướng tăng thay thế vị trí số một của vốn nước ngoài. Hơn nữa về thời hạn trả nợ, đa số
các khoản nợ này đều là các khoản trung và dài hạn cho nên trong tương lai gần không lo
gặp rủi ro thanh toán do không có khả năngtrả nợ gốc và lãi nhưng sẽ là áp lực thực sự
nếu các đồng vốn đó sử dụng không hiệu quả.
2.2. Thực trạng quản lý nợ công Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012
2.2.1. Thực trạng về hệ thống các văn bản quản lý nợ công ở VN
Đối với vay nợ nước ngoài, văn bản pháp lý cao nhất hiện nay là Nghị định
134/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/11/2005 ban hành quy chế quản lý vay và
trả nợ nước ngoài, và nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006 của Chính phủ ban
hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triểnchính thức, căn cứ vào các
nghị định này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quy chế hưởng dẫn cụ thể về quy
trình, thủ tục đối với từng nghiệp vụ quản lý nợ nước ngoài như cấp và quản lý bảo lãnh
chính phủ, cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ, xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng và báo cáo thông tin nợ. Nhìn chung, các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động vay nợ nước ngoài là tương đối đầy đủ
và đồng bộ, đã thể hiện những quan điểm đổi mới trong quản lý nợ của Chính phủ, phù
hợp luật ngân sách nhà nước 2002, đồng thời cập nhật những khái niệm, những phương
pháp luận quản lý nợ hiện đại. Khuôn khổ pháp luật và thể chế cho quản lý nợ công ở
nước ta đã có bước cải thiện đáng kể từ khi Luật Quản lý nợ công và Nghị định
79/2012/NĐ-CP hướng dẫn nghiệp vụ quản lý nợ công ban hành và có hiệu lực vào 1-1-
2010. Vai trò của các thiết chế chủ yếu như Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước… đều được quy định rõ từ khâu
hoạch định chủ trương đến các khâu cụ thể của quá trình quản lý nợ. Đặc biệt, Luật đã
quy định Bộ Tài chính có vai trò và trách nhiệm nòng cốt trong quá trình quản lý nợ. Điều
này đã khắc phục được những hạn chế của những năm trước là vai trò và mối quan hệ của
Chính phủ và các cơ quan chính phủ như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân
hàng Nhà nước đều chưa rõ. Hơn nữa việc thành lập Cục Quản lý nợ và tài chính thuộc
Bộ Tài chính là một bước tiến lớn về mặt thiết chế quản lý, đưa VN tiến sát với các
nước có khuôn khổ pháp lý và thể chế quản lý vững mạnh trên thế giới.
2.2.2. Thực trạng về tuyên truyền và phổ biến pháp luật liên quan đến quản lý nợ công
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 9
Về công khai thông tin về tài chính, đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ
biến trên thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong
quản trị nợ công. Theo Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm
nang minh bạch tài khóa (2007). Tuy nhiên, thực tế côngtác này chưa đạt yêu cầu. Thứ
nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của chính phủ vẫn còn
nhiều chỉ tiêu chưa rõ ràng. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình
trong việc hoạch địnhvà thực thi chính sách. Thứ hai, khu vực chính phủ chưa được tách
bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính
sách và vai trò quản lý của khu vực công chưa rõ ràng và công bố công khai. Thứ ba, về
quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ chưa giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân đứng đầu:
Lựa chọn các công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác
định giới hạn nợ luật không quy định rõ.
Về cải cách thủ tục hành chính, việc cải cách hành chính nhà nước chưa được thực hiện
trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức,... Trong đó, chưa có đủ cơ chế giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính
trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi của
người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính còn phức tạp chưa được đơn giản hóa và
thông tin công bố chưa đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương.
Về hiệu quả hoạt động kiểm toán nhà nước, hoạt động kiểm toán còn chưa mang tính
chất độc lập và đáng tin cậy nhiều hoạt động chưa cụ thể vào các chỉ tiêu quan trọng các
hoạt động quản lý nợ hàng năm, chưa thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và kiên
quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức,
thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Bảng 2: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nƣớc ngoài của quốc gia
Chỉ tiêu 2010 2011 2012
Nợ công/GDP (%) 56,3 54,9 55,7
Nợ nước ngoài/GDP (%) 42,2 41,5 41,1
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc gia so với
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (%)
3,4 3,5 3,5
Dư nợ chính phủ so với GDP (%) 44,6 43,2 43,3
Dư nợ chính phủ so với thu ngân sách (%) 157,9 162,0 172,0
Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2012 Page 10
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu NSNN (%) 17,6 15,6 14,6
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách (%) 5,5 6,7 9,8
Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay nước
ngoài của Chính phủ (triệu USD)
2.000,0 3.500,0 3.500,0
Nguồn: Bản tin nợ công số 2 (
2.3. Đánh giá về quản lý nợ công từ năm 2007 đến năm 2012
2.3.1. Những thành công trong công tác quản lý nợ công
Thứ nhất, văn bản quản lý n