Đề tài Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay

Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì mục tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, bản thân là một cán bộ đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất vinh dự và tự hào vì Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện xã hội qua các thời kỳ. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các chính sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy trong quá trình triển khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có công, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. còn gặp nhiều khó khăn và bất cập là thực trạng chung đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến chính sách xã hội. Xã Long Sơn là một đơn vị xa trung tâm huyện. Việc thực hiện các chính sách xã hội ở xã Long Sơn trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết quả đáng kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành vấn đề bức xúc của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải quyết có hiệu quả cho nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay” với mong muốn được ứng dụng những kiến thức đã học góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh.

doc30 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì mục tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, bản thân là một cán bộ đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất vinh dự và tự hào vì Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện xã hội qua các thời kỳ. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các chính sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy trong quá trình triển khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có công, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm... còn gặp nhiều khó khăn và bất cập là thực trạng chung đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến chính sách xã hội. Xã Long Sơn là một đơn vị xa trung tâm huyện. Việc thực hiện các chính sách xã hội ở xã Long Sơn trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết quả đáng kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành vấn đề bức xúc của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải quyết có hiệu quả cho nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay” với mong muốn được ứng dụng những kiến thức đã học góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh. 2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài 2.1. Mục đích: Nghiên cứu thực trạng vệc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản thực hiện tốt các chính sách xã hội ở địa phương. 2.2. Nhiệm vụ: Tìm hiểu tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính trị xã hội. - Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn trong giai đoạn hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm làm tốt việc tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân chấp hành và thực hiện tốt chính sách xã hội ở địa phương. 3. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn qua các năm 2009; 2010; 2011. 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp nghiên cứu, tổng hợp, thống kê, phân tích phỏng vấn. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 3 phần lớn sau: I. Cơ sở lý luận về chính sách xã hội II. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động trong giai đoạn hiện nay. III. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động trong giai đoạn tới. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là một bộ phận hữu cơ và giữ vị trí vai trò đặc biệt trong hệ thống cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, nhà lý luận thiên tài của cách mạng nước ta. Trong tư tưởng của Người, chính sách xã hội là xây dựng nước Việt Nam thống nhất, độc lập và hòa bình. Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, mặc dù chính quyền cách mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợ tóc” Người đã chủ trương đặt những vấn đề chính sách xã hội gắn liền với chính sách kinh tế lên hàng đầu thậm chí còn đặt cao hơn cả nhiệm vụ chống ngoại xâm. Sau này Bác lại nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đới sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân dốt Đảng và Chính phủ có lỗi”. Rõ ràng ở đây chính sách xã hội không còn là một sự ban ơn, càng không phải là thủ đoạn chính trị mị dân, mà là trách nhiệm hàng đầu của Đảng cầm quyền và Nhà nước trong chế độ mới. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những thập niên qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách xã hội quan trọng hướng tới quần chúng nhân dân lao động. Những chính sách xã hội đó đã có tác dụng khơi dậy và phát huy những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, làm nên nhiều kỳ tích anh hùng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách xã hội: Trong bước chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế mở cửa, đa dạng hóa các loại hình kinh tế, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức, để khắc phục nguy cơ tụt hậu, khỏi tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển với những hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lâu dài trước đây, đồng thời tạo ra những nguồn xung lực mới cho sự phát triển, cải thiện từng bươc cuộc sống của nhân dân, sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia phát triển của khu vực và thế giới. Chính sách xã hội cần đưa ra những định hướng toàn diện và đúng đắn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công dân, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Từ phương hướng chung trên Đảng ta đã đề ra một số quan điểm cơ bản trong trong quá trình triển khai thực hiện chính sách xã hội: Một là; Có chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động một cách toàn diện, bao trùm lên tất cả cac mặt đời sống xã hội. Trong thực tại xã hội, không một lĩnh vực nào mà chính sách xã hội lại không bao quát tới. Từ quan điểm này đòi hỏi việc đề ra chính sách xã hội cũng như thực hiện chính sách xã hội phải gắn bó, thống nhất với các hệ thống chính sách khác như chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, chính sách ngoại giao, chính sách dân tộc, tôn giáo, dân số... Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực khác nhau, song không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết với nhau, đan xen vào nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, tác động lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, những mục tiêu xã hội trở thành mục tiêu động lực của các hoạt động kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế là tiền đề và điều kiện vật chất cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ VI đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Trên một tinh thần như thế chính sách xã hộ cần phải được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Điều đáng chú ý là chính sách xã hội không được lạc hậu hơn so với sự phát triển kinh tế. Mặt khác phải khắc phục xu hướng phát triển kinh tế đơn thuần, chỉ thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận, bất chấp những nhu cầu đòi hỏi và những mục tiêu xã hội khác. Văn hóa, khoa học, giáo dục đào tạo là những lĩnh vực cần có chính sách cụ thể riêng, nhưng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với lĩnh vực kinh tế. Trong thời đại khoa học công nghệ và giao lưu văn hóa- xã hội rộng rãi như hiện nay, muốn có nhịp điệu phát triển kinh tế cao cần phải có sự phát triển tương xứng về trình độ văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Phát triển khoa học giáo dục và đào tạo chính là phát triển nguồn lực của mọi nguồn lực. Đầu tư vào lĩnh vực này chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Đó là đầu tư cơ bản tất yếu “có lãi” một cách lâu bền nhất. Tất nhiên trong khi cần thiết phải phổ cập tiểu học, trung học co sở, trẻ mầm non 5 tuổi cho toàn xã hội, tạo ra mặt bằng dân trí tương đối đồng đều giữa các vùng miền trong nhân dân. Chính trị xã hội về văn hóa- khoa học- giáo dục đào tạo gắn bó chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Tuy nhiên trong khi đưa ra hệ thống chính sách xã hội nhằm tranh thủ thời cơ, đi tắt đón đầu sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới, thì điều quan trọng cũng phải tính đến những đặc trưng, đặc điểm của dân tộc. Cần tranh thủ vận dụng chớp mọi cơ may, mở rộng hợp tác, mạnh dạn trong hội nhập, hòa nhập thích nghi một cách nhạy cảm với thời cuộc song phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong việc giải quyết các vấn đề giai cấp dân tộc, tôn giáo... đều có những nội dung kinh tế, văn hóa- xã hội, nên mỗi vấn đề trên cần có chính sách cụ thể riêng. Tuy nhiên, chính sách xã hội sẽ tác động chung vào những lĩnh vực này nhằm góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công dân, tạo ra sự thống nhất, đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo ở các vùng miền; xây dựng và hoàn thiện cơ cấu xã hội mới, tạo ra sự ổn định xã hội cũng như phát huy tối đa tính tích cực và năng động xã hội cho mọi thành viên trong xa hội. Hai là; Coi việc xây dựng chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn dân. Văn kiện Đại hội X đã khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa- thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm... Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe...”. Chính sách xã hội bao quát toàn bộ những hoạt động rộng lớn, phong phú, đa dạng của con người nhằm phục vụ cho con người. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cũng như thực hiện chính sách cần thiết phải thu hút sự đóng góp, tham gia thực hiện của tất cả các thành viên trong xã hội. Nhà nước cần đề ra chính sách cụ thể phù hợp với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm xã hội củ thể. Chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh chính sách xã hội. Mọi cá nhân tích cực tham gia thực thi, chấp hành chính sách, đồng thời đóng góp, đề xuất, kiến nghị lên cơ quan cấp trên nhằm bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách. Ba là; Cần phải tiến hành một cách đồng bộ chính sách xã hội, song không dàn trải mà phải tập trung ưu tiên vào một số những vấn đề xã hội có tính chiến lược cũng như những vấn đề xã hội cấp bách nổi trội lên trong mỗi giai đoạn. Việc nghiên cứu, khảo sát, xác định và lựa chọn cho trúng các chính sách xã hội cấp bách hàng đầu thích ứng với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm xã hội trong sự thống nhất biện chứng với các chính sách cơ bản khác là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cho cả một thời kỳ lâu dài, là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải đầu tư và tập trung xây dựng một cách đúng đắn. Bốn là; Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm giàu hợp pháp, đồng thời quan tâm một cách thích đáng tới người nghèo, rủi ro, người gặp khó khăn. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa với người có công với cách mạng cũng như phát huy truyền thống uống nước nhơ nguồn, thủy chung, nhân nghĩa của dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho cho phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bưc xúc...”. 3. Bản chất, nụi dung của chính sách xã hội 3.1. Bản chất của chính sách xã hội Chính sách xã hội được hình thành từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và đã được phát triển, biến đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử. Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình thức và loại chính xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là hệ thống công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội, góp phần thực hiện công bằng, bình đằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển bền vững. Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sang tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người. Theo Mác: “Trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Do đó, chính sách xã hội cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện cho mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội dung khác nhau, song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng, giúp đỡ người nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người. 3.2. Nội dung của chính sách xã hội Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của chính sách xã hội, song cho đến nay đa số các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng, chính sách xã hội không chỉ giới hạn trong một số vấn đề như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội mà phải có nội dung hết sức rộng lớn. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX và X đều chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...”. Có rất nhiều loại chính sách xã hội, song có thể khái quát lại một số nhóm chính sách sau đây: Thứ nhất; Hệ thống chính sách xã hội nhằm tác động điều chỉnh cơ bản xã hội Theo quan điểm tiếp cận khoa học mới hiện nay, chính sách xã hội cần phải tác động một cách đồng bộ, hài hòa và thích hợp vào tổng thể các phân hệ cơ cấu xã hội bao gồm: cơ cấu xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- nghề nghiệp, cơ cấu xã hội- dân số, cơ cấu xã hội lãnh thổ, cơ cấu xã hội- dân tộc... Trong khi tác động vào các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản, hệ thống chính sách xã hội cần tạo ra sự thống nhất giữa tính ổn định và tính năng động xã hội, vừa góp phần giảm bớt những xung đột và sai lệch xã hội, vừa tạo ra tính tích cực xá hội và những yếu tố cần thiết cho sự cân bằng, ổn định và phát triển bền vững trong xã hội. Vạch ra một hệ thống các chính sách xã hội nhằm tác động một cách tích cực, hiệu quả vào các quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc để từ đó góp phần phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhân tố con người, đó là một trong các mục tiêu chiến lược của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta. Thứ hai; Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất Trong hệ thống chính sách này, trước hết phải kể đến nhóm chính sách nhằm tạo ra nhiều việc làm cũng như những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho con người lao động. Chính sách xã hội về việc làm hướng tới khẳng định quyền có việc làm và những hình thức làm việc phù hợp với trình độ, sức khỏe, năng lực và đặc điểm của từng người lao động. Chính sách xã hội về việc làm không chủ trương cào bằng xóa nhòa mọi sự khác biệt giữa các thành viên lao động mà hướng vào việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra động lực nhằm khuyến khích tính tích cực của người lao động, sắp xếp, phân bố, hỗ trợ hợp lý người lao động. Nhóm chính sách này cùng hướng vào những mục tiêu như an toàn, an ninh, sức khỏe cho người lao động, giảm bớt những rủi ro, tai nạn trong lao động hay những thiệt hại do những đổ vỡ không tránh khỏi của một số doanh nghiệp do nền kinh tế thị trường gây ra. Thứ ba; Nhóm chính sách tác động vào quá trình tái sản xuất ra con người (chính sách dân số). Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức một cách sâu sắc hơn và chú trọng nhiều hơn vào chính sách dân số. Phấn đấu để có một quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân số hợp lý cũng như mức tăng dân số phù hợp với trình độ và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội nước ta trong những năm tới đây là mục tiêu chiến lược mà nhóm chính sách xã hội về dân số cần thiết phải có những đóng góp thiết thực vào quá trình này. Trong thời kỳ chuyển đổi chiến lược từ giai đoạn dân số - kế hoạch hóa gia đình sang thời kỳ dân số - phát triển; dân số - sức khỏe, sinh sản, từ việc chủ yếu chú trọng vào công tác thông tin – giáo dục – truyền thống sang chiến lược truyền thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược truyền thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược quan trọng như chiến lược dân số Việt Nam (2002-2010); chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản (2005-2010); Pháp lệnh dân số; mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đòi hỏi Đảng và nhà nước kịp thời sửa đổi, hoàn thiện sớm các chính sách về dân số. Điều đó nhằm tạo những bước chuyển mới về chất, giải quyết một cách căn bản sức ép dân số, đi trước, đón đầu được những biến động tiếp theo của dân số, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống, khai thác hơn nữa tiềm năng con người, trên cơ sở đó thúc đẩy hơn nữa nhịp độ phát triển của đất nước. Thứ tư; Nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập. Nhóm chính sách này bao gồm một tập hợp các chính sách về tiền lương, về tiền thưởng, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm tạo ra động lực tích cực cho mọi người lao động, tạo ra sự công bằng tương đối, thực hiện chủ nghĩa nhân đạo cho toàn xã hội. Là một đất nước phải trải qua hai cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, phải chịu những tổn thất lớn về người, về của, do đó, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách đền ơn, đáp nghĩa cho những người đã hy sinh, đóng góp nhiều cho đất nước. Cần củng cố, hoàn thiện chế độ, chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Mặt khác, cũng cần có một hệ thống chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận kợi cho những người có tài năng, các nhà khoa học, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi để họ có thể phát huy tối đa năng lực sáng tạo và khả năng cống hiến của mình cho đất nước. Sau cùng là những chính sách hướng vào các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm tài sản, phương