Học lý thuyết chuyên ngành cốt yếu là để vận dụng một cách có khoa học và sáng
tạo vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là trong thời đại tri thức như ngày nay. Quản trị
tài chính là một trong những đòi hỏi như thế về sự kết hợp biện chứng giữa lý luận và
thực nghiệm. Trong đó, quản trị vốn lưu động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn
đề rất đáng quan tâm.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ là hạn chế về năng lực quản trị tài chính, đặc biệt là việc hoạch định nguồn tài
trợ và quản trị vốn lưu động, thể hiện qua tình trạng thiếu vốn, mất tính thanh khoản.
Chính sự cần thiết đó mà tầm quan trọng của vốn lưu động được ví như dòng máu tuần
hoàn trong cơ thể doanh nghiệp. Và, hiệu qủa sử dụng vốn lưu động là điều kiện tiên
quyết khẳng định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Ngày nay, khi tham gia vào nền kinh tế mở cửa hội nhập, mọi nhu cầu về vốn lưu
động cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải tự trang trải, các doanh
nghiệp phải tự đối mặt với những sự biến động của thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, vì thế vấn đề quản trị và sử dụng vốn lưu
động càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.
Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông với đặc điểm ngành nghề kinh
doanh là mua bán và chế biến các sản phẩm nông sản, sản xuất kinh doanh chủ yếu là
lao động thủ công thay vì ứng dụng các thiết bị máy móc hiện đại, bởi vậy, vốn lưu
động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn. Do đó, công tác quản trị vốn
lưu động cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động thực tế tại công ty xứng đáng cho
một sự chú tâm đặc biệt. Ngoài ra, qua tìm hiểu, được biết một vài năm trở lại đây,
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận giảm sút.
Hiểu được tầm quan trọng của công tác quản trị vốn lưu động; với mong muốn mổ
xẻ một trong số những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
công ty trên cơ sở vấn đề quản trị và sử dụng vốn lưu động; như một tiếng nói khách
quan dưới góc nhìn của một sinh viên chuyên ngành kế toán để tìm ra những hạn chế
trong hoạt động, cùng đề ra phương hướng giải quyết, tôi lựa chọn và nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công
ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông”.
93 trang |
Chia sẻ: tuantu31 | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 1
Phần I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Học lý thuyết chuyên ngành cốt yếu là để vận dụng một cách có khoa học và sáng
tạo vào thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là trong thời đại tri thức như ngày nay. Quản trị
tài chính là một trong những đòi hỏi như thế về sự kết hợp biện chứng giữa lý luận và
thực nghiệm. Trong đó, quản trị vốn lưu động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn
đề rất đáng quan tâm.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ là hạn chế về năng lực quản trị tài chính, đặc biệt là việc hoạch định nguồn tài
trợ và quản trị vốn lưu động, thể hiện qua tình trạng thiếu vốn, mất tính thanh khoản.
Chính sự cần thiết đó mà tầm quan trọng của vốn lưu động được ví như dòng máu tuần
hoàn trong cơ thể doanh nghiệp. Và, hiệu qủa sử dụng vốn lưu động là điều kiện tiên
quyết khẳng định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Ngày nay, khi tham gia vào nền kinh tế mở cửa hội nhập, mọi nhu cầu về vốn lưu
động cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải tự trang trải, các doanh
nghiệp phải tự đối mặt với những sự biến động của thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, vì thế vấn đề quản trị và sử dụng vốn lưu
động càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.
Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông với đặc điểm ngành nghề kinh
doanh là mua bán và chế biến các sản phẩm nông sản, sản xuất kinh doanh chủ yếu là
lao động thủ công thay vì ứng dụng các thiết bị máy móc hiện đại, bởi vậy, vốn lưu
động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn. Do đó, công tác quản trị vốn
lưu động cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động thực tế tại công ty xứng đáng cho
một sự chú tâm đặc biệt. Ngoài ra, qua tìm hiểu, được biết một vài năm trở lại đây,
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận giảm sút.
Hiểu được tầm quan trọng của công tác quản trị vốn lưu động; với mong muốn mổ
xẻ một trong số những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
công ty trên cơ sở vấn đề quản trị và sử dụng vốn lưu động; như một tiếng nói khách
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 2
quan dưới góc nhìn của một sinh viên chuyên ngành kế toán để tìm ra những hạn chế
trong hoạt động, cùng đề ra phương hướng giải quyết, tôi lựa chọn và nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công
ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông”.
Lưu ý: Đầu năm 2012, tức là tại thời điểm tôi thực tập tại đơn vị, Công ty chuyển
đổi loại hình doanh nghiệp sang Công ty TNHH một thành viên Kinh doanh tổng hợp
Miền Đông. Tuy nhiên, trong đề tài này, tôi xin phép được lấy tên là Công ty Cổ phần
Kinh doanh tổng hợp Miền Đông để phù hợp và thống nhất với khoảng thời gian
nghiên cứu và toàn bộ tài liệu thu thập được. Hơn nữa, được biết, do vừa mới chuyển
đổi, nên về cơ bản các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có sự thay đổi đáng kể,
trong khi đó, cơ cấu tổ chức và nhân sự lại có những thay đổi và chưa ổn định.
I.2. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu
- Hệ thống lại một phần kiến thức khoa học liên quan đến vấn đề quản trị và hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
- Đánh giá thực trạng quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông.
- Đóng góp một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản trị vốn lưu động và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông
I.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề nghiên cứu là Công tác quản trị vốn lưu động và
sử dụng vốn lưu động, do đó, đối tượng nghiên cứu cụ thể là các chính sách, thủ tục,
quy trình quản trị vốn lưu động và các chỉ tiêu tài chính về hiệu quả quản trị và sử
dụng vốn lưu động.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông
+ Thời gian thu thập tài liệu và viết báo cáo: Từ 1/2/2012 đến 5/5/2012
+ Thời gian nghiên cứu: Năm tài chính 2009, 2010 và 2011
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 3
I.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: Quan sát, phỏng vấn để thu thập số liệu thứ cấp
thông qua Báo cáo tài chính năm 2009, 2010, 2011 và các văn bản, quy định liên quan
của công ty.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Phương pháp duy vật lịch sử: Phương pháp này được sử dụng để đưa ra
những nhận xét, đánh giá về công tác quản trị và sử dụng vốn lưu động trên cơ sở
tính toán số liệu trong khoảng thời gian từ quá khứ đến nay, cụ thể là từ năm 2009
đến 2011.
+ Phương pháp duy vật biện chứng: Phương pháp này được sử dụng để đưa ra
những nhận xét, đánh giá về công tác quản trị và sử dụng vốn lưu động trên cơ sở
xem xét mối quan hệ qua lại với công tác quản trị nói chung của doanh nghiệp và
những tác động của môi trường kinh doanh, trong trạng thái động.
+ Phương pháp phân tích theo chiều ngang: Phương pháp này được sử dụng
để so sánh tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối các chỉ tiêu trên
Báo cáo tài chính giữa các năm, hoặc giữa năm báo cáo với kế hoạch.
+ Phương pháp phân tích theo chiều dọc: Phương pháp này là việc sử dụng
các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng Báo cáo tài chính và
giữa các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Phân tích theo chiều dọc thể hiện sự
biến động về cơ cấu hay những quan hệ tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống Báo
cáo tài chính tại doanh nghiệp.
I.5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận có kết cấu gồm 3 phần lớn:
Phần 1: Đặt vấn đề
Với tính chất là đặt vấn đề cho đề tài nghiên cứu, phần này đề cập đến sự cần thiết
của đề tài, mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 4
Phần 2: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Phần này gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề quản trị và sử dụng vốn lưu động
Các nội dung lý luận khoa học về khái niệm vốn lưu động, quản trị vốn lưu động
và hiệu quả sử dụng vốn lưu động được trình bày trong chương này.
Chương 2: Thực trạng quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông
Chương này đưa ra những nét tổng quan về tình hình hoạt động của công ty, sau đó
đi vào tìm hiểu công tác quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động biểu
hiện bằng quy định, chính sách, số liệu thực tế tại công ty.
Chương 3: Đánh giá tổng hợp và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng
cao công tác quản trị vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ
phần Kinh doanh tổng hợp Miền Đông
Phần 3: Kết luận
Nội dung của phần này là tổng kết lại các ý chính đã trình bày trong đề tài, kết quả
đạt được và một số công việc chưa hoàn thành.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 5
Phần II : NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ
VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
1.1. Vốn lưu động và các nguồn hình thành vốn lưu động
1.1.1. Khái niệm vốn lưu động
Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động, các DN còn cần phải
có đối tượng lao động và sức lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản
xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, mà bộ phận chủ yếu của đối tượng
lao động sẽ thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận
khác sẽ mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ có thể tham gia một
chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải có loại đối tượng lao động khác.
Đối tượng lao động trong DN được biểu hiện thành hai bộ phận, đó là những vật tư
dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, và một bộ phận khác là những
vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm dở dang). Hình thái hiện vật của hai bộ
phận này gọi là tài sản lưu động.
Tài sản lưu động phục vụ trực tiếp trong quá trình sản xuất gọi là tài sản lưu động
sản xuất
Mặt khác, DN sau khi sản xuất xong, có thể chuyển bán ngay cho đơn vị mua, hoặc
làm một số công việc như đóng gói, tích lũy thành lô hàng, thanh toán với khách
hàngdẫn đến việc hình thành nên một số khoản vật tư và tiền tệ (bao gồm thành
phẩm, hàng hóa, vốn bằng tiền, khoản phải thu khách hàng). Những khoản vật tư và
tiền tệ này phát sinh trong quá trình lưu thông gọi là tài sản lưu động trong lưu thông.
Do tính chất liên tục của quá trình sản xuất nên DN nào cũng có một số vốn thỏa
đáng để mua sắm các tài sản lưu động. Vậy, vốn lưu động của DN là số tiền ứng trước
về những tài sản lưu động hiện có của DN. (TS. Bùi Hữu phước/TCDN/2007)
TR
ƯỜ
G Đ
ẠI
HỌ
C K
INH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 6
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của vốn lưu động
1.1.2.1. Đặc điểm của vốn lưu động
VLĐ của DN không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự
trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại
theo chu kỳ được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của VLĐ. Qua mỗi giai đoạn
của chu kỳ kinh doanh, VLĐ lại thay đổi hình thái biểu hiện từ hình thái vốn tiền tệ
ban đầu chuyển sang vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng trở về
hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, VLĐ hoàn thành một vòng chu chuyển.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động SXKD, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị ngay trong
một lần và được hoàn lại toàn bộ sau khi DN tiêu thụ sản phẩm thu bằng tiền bán hàng.
1.1.2.2. Vai trò của vốn lưu động
Vốn kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng là một bộ phận của SXKD. Nó đóng
góp một vai trò rất to lớn trong sự tăng trưởng và phát triển của DN. Cụ thể:
VLĐ là điều kiện tiên quyết để DN đi vào hoạt động. Bởi vì, để tiến hành sản xuất,
ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết bị, nhà xưởngDN phải ứng trước một số
vốn để hình thành tài sản lưu động như nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hóa
phục vụ quá trình sản xuất.
VLĐ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của DN được tiến hành thường xuyên, liên
tục. Trong cùng một lúc VLĐ được phân bổ trên khắp các giai đoạn và tồn tại dưới
những hình thái khác nhau của chu trình luân chuyển, dẫn đến DN phải có đủ vốn đầu
tư vào các hình thái khác nhau đó. Nếu thiếu VLĐ ở một trong ba khâu dự trữ - sản
xuất - lưu thông thì đều ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động SXKD, làm giảm doanh
thu và lợi nhuận của DN.
VLĐ là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm, dịch vụ do đặc điểm
chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Trong khi đó, giá thành là một công cụ
quan trọng của DN để kiểm soát hoạt động SXKD. Thế nên, việc quản lý VLĐ giúp
DN có thể xem xét tác động và hiệu quả việc thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật
đến sản xuất, phát hiện và tìm ra những tồn tại, yếu kém để tìm cách loại trừ.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 7
Bên cạnh đó, VLĐ còn là công cụ đánh giá quá trình vận động của vật tư. VLĐ
nhiều hay ít, luân chuyển nhanh hay chậm tương ứng phản ánh vật tư hàng hóa nằm
trên các khâu nhiều hay ít, sử dụng tiết kiệm hay lãng phí. Vì vậy, thông qua tình hình
luân chuyển VLĐ có thể nắm bắt kịp thời việc mua sắm vật tư dự trữ, sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm của DN.
1.1.3. Phân loại vốn lưu động
Đê nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ, cần thiết phải tiến
hành phân loại VLĐ của DN theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những
cách phân loại sau:
Thứ nhất, căn cứ vào vai trò của VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh, VLĐ
được chia thành 3 loại:
- VLĐ trong khâu dự trữ: bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, nguyên
vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- VLĐ trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
- VLĐ trong khâu lưu thông: bao gồm các khoản giá trị thành phẩm; vốn bằng tiền
(kể cả vàng, bạc, đá quý); các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn,
cho vay ngắn hạn); các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn
trong thanh toán (các khoản phải thu, các khoản tạm ứng).
Việc phân loại VLĐ theo tiêu thức này là hữu ích cho việc xem xét tình hình
phân bổ của VLĐ trong từng khâu của quá trình chu chuyển VLĐ. Từ đó, nhà quản trị
sẽ có những biện pháp thích hợp nhằm tạo ra một kết cấu VLĐ hợp lý, tăng tốc độ
luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
Thứ hai, căn cứ vào hình thái biểu hiện, VLĐ được chia thành 4 loại:
- Tiền và các khoản tương đương tiền: bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền
đang chuyển, các khoản đầu tư ngắn hạn.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 8
- Hàng tồn kho: bao gồm hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu, công cụ
dụng cụ, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, thành phẩm tồn kho, hàng hóa, hàng
gửi bán
- Các khoản phải thu: bao gồm khoản phải thu khách hàng, phải thu nội bộ, thuế
GTGT được khấu trừ, phải thu khác.
- Vốn lưu động khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, các khoản cầm
cố, kí quỹ, kí cược ngắn hạn.
Việc phân loại VLĐ theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính toán,
đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Thứ 3, căn cứ vào nguồn hình thành VLĐ, VLĐ được chia thành 2 loại:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của DN. DN có đầy đủ
các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối và định đoạt. Tùy theo loại hình
DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể
riêng: số VLĐ được ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
(đối với các DN nhà nước); số vốn do các thành viên (đối với loại hình DN công ty)
hoặc do chủ DNTN bỏ ra; số VLĐ tăng thêm từ lợi nhuận bổ sung; số vốn góp từ liên
doanh liên kết; số VLĐ huy động được qua phát hành cổ phiếu.
- Nợ phải trả: bao gồm một bộ phận từ nguồn vốn đi vay của các ngân hàng thương
mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn thông qua phát hành trái phiếu. Một bộ phận
nữa là nguồn vốn trong thanh toán phát sinh từ các khoản nợ khách hàng, DN khác
trong quá trình thanh toán.
Việc phân loại này cho thấy kết cấu các nguồn hình thành nên VLĐ của DN. Từ
đó, DN có thể chủ động đưa ra các biện pháp huy động, quản lý và sử dụng VLĐ thực
sự hiệu quả.
1.2. Quản trị vốn lưu động
1.2.1. Tầm quan trọng của quản trị vốn lưu động
Thời gian dành cho quản trị vốn lưu động
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 9
Các cuộc khảo sát cho thấy, phần lớn thời gian của người Giám đốc tài chính là
dành cho công việc điều hành hằng ngày trong nội bộ DN. Đó chính là việc quản trị
VLĐ. Vì quá nhiều thời gian dành cho các quyết định liên quan đến VLĐ, thiết nghĩ
một sự phân tích thấu đáo điều này sẽ rất cần thiết.
Tài sản lưu động thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một DN. Vì
nó chiếm một phần đầu tư khá lớn nên tài sản lưu động xứng đáng cho một sự chú tâm
đặc biệt của nhà quản trị tài chính.
Mối quan hệ giữa doanh thu và tài sản lưu động
Có sự tương quan rất mật thiết và trực tiếp giữa sự gia tăng doanh thu và nhu cầu
tài trợ tài sản lưu động. Ví dụ, nếu thời gian thu tiền bình quân của DN là 40 ngày và
số bán chịu mỗi ngày là 1.000 đ, DN phải đầu tư 40.000 đ vào các khoản phải thu. Nếu
bán chịu mỗi ngày là 2.000 đ, thì phải đầu tư vào các khoản phải thu là 80.000 đ. Sự
gia tăng doanh thu còn làm phát sinh ngay nhu cầu gia tăng tồn kho và cả tiền mặt.
Tầm quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quản trị VLĐ là quan trọng đối với các DN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ. Một
DN có thể giảm đầu tư vào tài sản cố định bằng cách thuê mướn nhà xưởng và thiết bị,
nhưng lại không có cách nào tránh khỏi đầu tư vào tiền mặt, các khoản phải thu và tồn
kho. Ngoài ra, đối với một DN vừa và nhỏ khó với đến thị trường vốn dài hạn, họ phải
trông cậy nhiều vào sự mua chịu và vay ngắn hạn từ ngân hàng. Cả hai yếu tố đó đều
ảnh hưởng tới VLĐ vì nó làm tăng tài sản lưu động.
1.2.2. Nội dung quản trị vốn lưu động
1.2.2.1. Quản trị vốn bằng tiền
Tiền mặt kết nối tất cả các hoạt động liên quan đến tài chính của DN. Vì thế, nhà
quản lý cần phải tập trung vào quản trị tiền mặt để giảm thiểu rủi ro về khả năng thanh
toán, tăng hiệu quả sử dụng tiền, đồng thời ngăn ngừa các hành vi gian lận về tài chính
trong nội bộ DN hoặc của bên thứ ba.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 10
Quản trị tiền mặt là quá trình bao gồm quản lý lưu lượng tiền mặt tại quỹ và tài
khoản thanh toán ở ngân hàng, kiểm soát chi tiêu, dự báo nhu cầu tiền mặt của DN, bù
đắp thâm hụt ngân sách, giải quyết tình trạng thừa, thiếu tiền mặt trong ngắn hạn cũng
như dài hạn.
Vì sao phải có một mức dự trữ tiền mặt hợp lý?
Các DN hay các cá nhân có ba động lực chính để dự trữ tiền mặt là: nhu cầu cho
hoạt động SXKD, dự phòng những bất trắc có thể xảy ra và đầu cơ vào các cơ hội sinh
lời cao.
Dự trữ tiền mặt (tiền tại quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán tại ngân hàng) ở 1
mức hợp lý là điều tất yếu của các DN. DN giữ quá nhiều tiền mặt so với nhu cầu sẽ
dẫn đến việc ứ đọng vốn, tăng rủi ro về tỷ giá (nếu dự trữ ngoại tệ), tăng chi phí sử
dụng vốn (vì tiền mặt tại quỹ không sinh lãi, tiền mặt tại tài khoản thanh toán ngân
hàng thường có lãi rất thấp so với chi phí lãi vay của DN). Hơn nữa, sức mua của đồng
tiền có thể giảm sút nhanh do lạm phát.
Nếu DN dự trữ quá ít tiền mặt, không đủ tiền để thanh toán sẽ bị giảm uy tín với
nhà cung cấp, ngân hàng và các bên liên quan. DN sẽ mất cơ hội hưởng các khoản ưu
đãi giành cho giao dịch thanh toán ngay bằng tiền mặt, mất khả năng phản ứng linh
hoạt với các cơ hội đầu tư phát sinh ngoài dự kiến.
Các điểm lợi đặc biệt
Ngoài các động lực trên, quản trị lành mạnh vốn lưu động đòi hỏi duy trì một mức
dự trữ tiền mặt khá rộng rãi vì các lý do đặc biệt sau đây:
- Thứ nhất, doanh nghiệp phải có dự trữ tiền mặt vừa đủ để chiết khấu trên hàng
mua trả trước kỳ hạn.
- Thứ hai, vì các tỷ số về khả năng thanh toán là tỷ số căn bản trong lĩnh vực
tín dụng.
- Thứ ba, có tiền mặt rộng rãi, doanh nghiệp có thể lợi dụng ngay các cơ hội kinh
doanh tốt.
TR
ƯỜ
NG
ĐẠ
I H
ỌC
KI
NH
TẾ
- H
UẾ
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán - Tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang 11
Kiểm soát tiền mặt
Hoạt động của một DN cho thấy luôn có những luồng tiền vào và ra liên tục.
Luồng tiền vào cho thấy những khoản thu từ bán hàng hóa hay những khoản thu khác.
Luồng tiền ra cho thấy những khoản tiền mà DN phải trả do mua vật tư hàng hóa, chi
trả lương, chi mua sắm tài sản, thuê mướn, nộp thuế và các khoản chi khác. Đồng thời
những khoản thu chi đó thường không thống nhất về thời gian và giá trị, vì vậy luôn
tạo ra tình trạng dư thừa hay thiếu hụt tiền mặt tại những thời điểm nhất định trong
một kỳ hoạt động của DN.
Để đáp ứng nhu cầu kiểm soát tiền, ngân sách tiền mặt được xem là một công cụ
hữu hiệu và quan trọng nhất của nhà quản trị tài chính, bởi vì, ngân sách tiền mặt đòi
hỏi chẳng những phải xác định nhu cầu vốn tổng quát cần được tài trợ mà còn cho biết
trị giá nhu cầu vốn cần cho mỗi tháng.
Ngân sách tiền mặt là sự phối hợp có kế hoạch tài nguyên của DN, căn cứ trên các
dự toán cho tương lai. Hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của
DN là:
- Thứ nhất: Ảnh hưởng từ bên ngoài, các biến chuyển kinh tế và thay đổi về môi
trường cạnh tranh trong cùng ngành. DN khó có thể kiểm soát nổi các yếu tố này.
- Thứ hai: DN có thể kiểm soát được mức độ hiệu quả ở mỗi mứ