- Chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích lợi nhuận.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành toàn quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp đầu tư.
- Tỷ lệ góp vốn của các chủ đầu tư quy định quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia theo tỷ lệ này.Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
- FDI không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp, vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được.
- Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2550 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng thu hút và quản lý rủi ro dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài:
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ QUẢN LÝ RỦI RO DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO VIỆT NAM
I.Tổng quan về FDI
1. Khái niệm FDI
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.
2. Đặc điểm của FDI
- Chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích lợi nhuận.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành toàn quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp đầu tư.
- Tỷ lệ góp vốn của các chủ đầu tư quy định quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia theo tỷ lệ này.Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
- FDI không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp, vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được.
- Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý…
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh.
3. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế, là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Cụ thể: Năm 2001, FDI giải ngân khoảng 2,451 tỷ USD, năm 2007 con số này là 8,1 tỉ USD, năm 2009 là 10 tỷ USD.
- FDI kèm theo quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Cụ thể: Các doanh nghiệp FDI luôn kèm theo việc đào tạo lại lao động, hình thành đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ. Khảo sát cho thấy có khoảng 44% doanh nghiệp thực hiện đào tạo lại lao động để thích nghi với CN tiên tiến.
- Giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Cụ thể: Thời kỳ 1996 – 2000, xuất khẩu khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt 10,6 tỷ USD; tỷ lệ này vào 8 tháng đầu năm 2010 ước đạt 20,65 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực FDI kể cả dầu thô ước đạt 23,94 tỷ USD.
- FDI góp phần giải quyết vấn đề việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực. Cụ thể: Tính đến năm 2007, các doanh nghiệp FDI đã trực tiếp tạo việc làm cho trên 1,1 triệu lao động và gián tiếp tạo việc làm cho hàng triệu lao động khác.
- Đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Cụ thể: Giai đoạn 1996-2000 là 1,49 tỷ USD; 2001-2005 là 3,6 tỷ, hơn 3 tỷ trong giai đoạn 2006-2007, trong năm 2009 là 2,5 tỷ USD.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể: Theo nhận định của các chuyên gia, lượng FDI vào công nghiệp có xu hướng giảm trong khi FDI vào các lĩnh vực dịch vụ, y tế, công nghệ cao lại tăng mạnh.
- Góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại ngoại giao, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm.
II. Thực trạng thu hút đầu tư và những rủi ro của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam
1. Thực trạng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong những năm qua. (1988-2009)a. Xu hướng của dòng vốn FDI qua các năm
- 1988 – 1990: Do mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nên dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ ( 211 dự án với tổng vốn đăng ký là 1,4022 tỷ USD, vốn thực hiện là 0). FDI chưa ảnh hưởng đến tình hình KT-XH của đất nước.
- 1991 – 1996: Vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể (1754 dự án với tổng vốn đăng ký 27,83 tỷ USD, vốn thực hiện 9,23 tỷ) và có tác động mạnh mẽ đến nền KT-XH đất nước. Đây được xem như thời kỳ bùng nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) tại VN, có thể coi như Làn sóng ĐTTTNN đầu tiên vào nước ta. Giai đoạn này môi trường đầu tư ở VN đã bắt đầu hấp dẫn các nhà đầu tư do chi phí đầu tư thấp, sự sẵn có về lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới vì vậy, ĐTTTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu KT-XH của đất nước.
- 1997 – 1999: Có 962 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước ( 1998 chỉ bằng 81,9% năm 1997; năm 1999 chỉ bằng 50,3% so với năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này, nhiều dự án ĐTTTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính như các nhà dự án đầu tư từ Hàn Quốc, Hồng Kong (một phần do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á).
- 2000 – 2003: Nguồn vốn đầu tư FDI vào VN có xu hướng phục hồi chậm. Vốn đăng ký cho năm 2000 đạt 2,84 tỷ USD, tăng 10,94% so với năm 1999; năm 2001 tăng 10,7% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm chỉ bằng 95,41% so với năm 2001; năm 2003 tăng 6,41% so với năm 2002.
- 2004 – 2005: FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004, vốn đăng ký vào 811 dự án là 4,55 tỷ USD trong đó vốn thực hiện là 2,853 tỷ USD. Năm 2005, ĐTTTNN đạt mức mới với tổng số dự án là 970, thu hút một lượng vốn là 6,84 tỷ USD tăng 50,4% so với năm 2004.
- 2006 – 2007: Dòng vốn FDI vào nước ta tăng đáng kể (33,35 tỷ USD), năm 2006 có số dự án là 987, lượng vốn đăng ký tăng 75,5% so với 2005. Năm 2007 với số dự án là 1544, tổng vốn tăng 77,84%, số vốn thực hiện đạt 8,03 tỷ USD. Với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp ( sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao..) và dịch vụ ( cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp…) đã cho thấy dấu hiệu của làn sóng đầu tư thứ 2 vào VN.
- 2008 – 2009: Đây là giai đoạn có sự giảm sút lớn về lượng vốn FDI vào nước ta. Nếu như năm 2008 có sự gia tăng đột biến về tổng vốn FDI đăng ký là 71,73 tỷ USD, tăng 235,98% so với năm 2007, doanh nghiệp FDI sử dụng một lượng lớn lao động 16 vạn người, nộp ngân sách nhà nước 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007, thì đến năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, nguồn vốn đăng ký giảm chỉ còn 23,1 tỷ USD ( giảm 67,78% so với năm 2008) và vốn thực hiện là 10 tỷ USD (giảm 13% so với năm 2008).
- 9 tháng đầu năm 2010: Cả nước có 720 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 11,4 tỷ USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ 2009. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 9 tháng đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 12,19 tỷ USD, bằng 87,3% so với cùng kỳ 2009.
Biểu đồ 1: Tổng số Dự án FDI vào Việt Nam 1988 – hết tháng 9-2010
Biểu đồ 2: Tổng số vốn FDI vào Việt Nam 1988- hết tháng 9/2010
( NHẬN XÉT: Nhìn chung, lượng FDI vào Việt Nam ngày càng tăng dần cả về số dự án, số vốn đăng ký và số vốn thực hiện. Sở dĩ như vậy là bởi Việt Nam đã xây dựng những lợi thế riêng cho mình để trở thành một địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài . Bằng chứng là theo tập đoàn Goldman Sachs ( Hoa Kỳ), Việt Nam nằm trong nhóm 11 nước được dự báo có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong những năm tới, mở ra những cơ hội cho các nhà đầu tư và là địa chỉ đầu tư tốt cho các nhà đầu tư thế giới trong các năm tiếp theo.
b. Cơ cấu FDI theo các lĩnh vực của nền kinh tế
- Trong lĩnh vực Công nghiệp – Xây dựng:
Qua các thời kỳ, định hướng thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử… Vì vậy, cho đến nay, các dự án ĐTTTNN vào các lĩnh vực trên vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu, CNTT với sự có mặt của các tập đoàn nổi tiếng: Intel, Panasonic, Canon,…
- Trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành. Một số ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, bất động sản.. tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Trong những năm gần đây, các nhà ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, tính đến ngày 15/12/2009, tổng số dự án kinh doanh bất động sản còn hiệu lực là 315 với nguồn vốn trên 40,11 tỷ USD, giữ vai trò chủ chốt trong thu hút FDI của khu vực dịch vụ.
Trong năm 2009, đã có sự chuyển dịch đáng kể nguồn vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm vào lĩnh vực dịch vụ với tổng số vốn là 17,5477 tỷ USD chiếm tới 81,5% tổng lượng với sự xuất hiện của một ngành khá mới với lượng thu hút lớn là dịch vụ lưu trú và ăn uống.
- Trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp:
Nhà nước ta đã dành các ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực này đã được chú trọng ngay từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời. Tuy nhiên đến nay, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này nên kết quả thu hút FDI chưa được như mong đợi. Đến hết năm 2009, cả nước còn 480 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 3 tỷ USD, chiếm 4,38% về tổng số dự án FDI, 1,69% về tổng vốn. Các dự án còn hoạt động hiệu quả phải kể đến mía đường, gạo, xay xát bột mỳ, sắn, rau.
Cho đến nay, đã có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông – lâm – ngư nghiệp nước ta, trong đó các nước châu Á chiếm hơn 60% tổng vốn đăng ký, các nước EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất là Pháp (8%), quần đảo Virgin (11%). Các dự án nông – lâm – ngư nghiệp chủ yếu tập trung ở phía Nam, chiếm 54% tổng vốn đầu tư đăng ký: Vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Nam Trung Bộ
Bảng 1: Số liệu cơ cấu FDI theo ngành 1988-2009
Số dự án
Vốn đăng ký
(Tỷ đô la Mỹ)
Tổng số
12575
194,4295
Nông nghiệp và lâm nghiệp
575
3,8377
Thủy sản
163
5,414
Công nghiệp khai thác mỏ
130
10,9804
Công nghiệp chế biến
7475
88,5795
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
72
2,2314
Xây dựng
521
7,9644
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
322
1,0416
Khách sạn và nhà hàng
379
19,4028
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
554
8,4353
Tài chính, tín dụng
69
1,1037
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
1867
45,5057
Giáo dục và đào tạo
128
0,2758
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
73
1,0333
HĐ văn hóa và thể thao
129
2,8380
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
118
0,6583
Biểu đồ 3: Cơ cấu FDI theo 3 lĩnh vực chính
( NHẬN XÉT: Theo số liệu thống kê của Cục đầu tư nước ngoài, cơ cầu vốn FDI có sự thay đổi mạnh mẽ trong giai đoạn 2001-2009, nếu như những năm đầu của thập kỷ này, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp xây dựng chiếm 85% thì tới năm vừa qua, khu vực này chỉ còn chiếm 22% tổng vốn đầu tư. Trong khi đó vốn FDI vào khu vực dịch vụ có xu hướng ngược lại, khi tăng từ 7% lên đến 77% cũng trong giai đoạn này với con số thống kê trên ( theo số liệu của tổng cục thống kê). Lĩnh vực Nông – lâm – ngư nghiệp có nguồn vốn FDI còn ít, cần có những chính sách khuyến khích đầu tư cần thiết để tăng thu hút vốn FDI, cải thiện nền nông nghiệp nước nhà.
c. Những nước chủ đầu tư chính vào Việt Nam (Số liệu về 10 nước có số dự án ĐK nhiều nhất từ 1988 – tháng 9/2010)
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật Đầu tư, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%.
Theo số liệu 1988-2009, Hàn Quốc đầu tư vào nước ta nhiều nhất với 2560 dự án, chiếm 25% , tiếp theo đó lần lượt là Đài Loan, Nhật Bản, Singapore…Xét về tổng vốn đầu tư, Hàn Quốc vẫn chiếm ưu thế cao nhất với 26.88 tỷ USD chiếm 18%. Có những nước có tỷ lệ dự án cao nhưng tổng số vốn đăng ký lại chiếm tỷ lệ nhỏ như CHND Trung Hoa, ngược lại một số nước có số dự ít hơn nhưng tỷ lệ vốn lại khá cao: Malaysia, Hoa Kỳ…
Biểu đồ 4: Số dự án FDI phân theo nước chủ đầu tư
Biểu đồ 5: Tổng số vốn FDI phân theo nước chủ đầu tư
( NHẬN XÉT: Qua hơn 20 năm thi hành Luật đầu tư, chúng ta đã thu hút được một lượng lớn nguồn vốn FDI vào VN từ các nước, trong đó có những đối tác đầu tư vững bền như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore duy trì vị trí dẫn đầu trong lượng FDI vào Việt Nam. Bên cạnh đó cũng mở rộng được những đối tác châu Âu mới như Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển… Tuy nhiên, vốn vào Việt Nam hầu hết là từ các quốc gia châu Á, chưa thu hút được nhiều nguồn vốn từ EU hay Hoa Kỳ.
d. Đóng góp to lớn của FDI với Việt Nam 1988-2009
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của nguồn vốn FDI vào VN, xem xét trên hai lĩnh vực cụ thể
- Về kinh tế
Nông nghiệp – lâm – ngư nghiệp
- FDI góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm, phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho hàng nông sản VN.
- Các dự án đầu tư FDI vào nông nghiệp tuy không lớn nhưng đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định, giúp cho hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho các dự án hoặc theo mùa vụ, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Công nghiệp
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước, được thể hiện thông qua tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị SXCN tăng dần qua các năm 16.9% - 1991, 26.5% - 1996, 36.4% - 2006, 43.8% giá trị sản lượng công nghiệp tương đương với khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
- Có thêm nhiều dự án có quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại, nhiều dự án liên kết ngành giúp phát triển các ngành CN phụ trợ.
- Việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trong CN phát triển nhanh cũng tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
- Gián tiếp đào tạo cho Việt Nam đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ và các kỹ năng quản lý, kỹ thuật công nghệ chặt chẽ.
Dịch vụ
- Giúp đẩy mạnh phát triển ngành dịch vụ - ngành càng ngày càng chiếm một thị phần lớn trong thương mại toàn cầu, mở rộng các loại hình dịch vụ đến mọi lĩnh vực đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
- Về xã hội: Các dự án FDI trong thời gian qua đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn cho người lao động, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, giúp đất nước đào tạo nguồn nhân lực biết cách vận hành sử dụng công nghệ cao. Hơn thế nữa, các lao động trong khu vực có vốn FDI còn được hưởng mức lương cao hơn các khu vực khác, vì vậy FDI góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ đói nghèo.
2. Những rủi ro dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam
- Bị chi phối bởi nước chủ đầu tư: Theo tiêu chuẩn quốc tế vốn FDI chỉ được chiếm 5% tổng đầu tư toàn xã hội và chiếm tỉ lệ thấp hơn nữa trong GDP của một quốc gia, thực tế ở Việt Nam FDI hiện nay chiếm khoảng 25% tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp 20% GDP, tỉ trọng vốn FDI quá lớn sẽ khiến nền kinh tế đó phụ thuộc vào nước ngoài do thu nhập họ tạo ra không phải là của ta, phần lớn lợi nhuận thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, những gì Việt Nam được hưởng chỉ là công lao động và một phần rất nhỏ từ lợi nhuận. Hơn thế nữa, khi nền kinh tế các nước chủ đầu tư gặp khó khăn, đặc biệt khi lâm vào các cuộc khủng hoảng tài chính sẽ gây nên ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn FDI vào Việt Nam.
- Nguy cơ gây ra tình trạng lạm phát: Theo nhận định của các chuyên gia, để có được 1 USD FDI, nước tiếp nhận đầu tư cũng phải có sự bỏ vốn đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn. Hơn nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước quá lớn sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hóa dịch vụ tương ứng ( hợp lực của những yếu tố này sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra.
- Hiện tượng nhập siêu, chuyển giá, báo lỗ: Trong đó chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết, chính tình trạng chuyến giá,ví dụ như việc kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận, đã là lí do cho việc công ty thông báo lỗ nhằm tránh nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.Theo Cục Thuế Tp.HCM, 60% doanh nghiệp FDI hoạt động trên địa bàn này báo lỗ trong năm 2009, năm 2008 là 50% , tuy nhiên, rất nhiều trong số này vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất tại Việt Nam, việc chuyển giá này của các doanh nghiệp FDI không chỉ làm thất thu thuế đối với Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đẩy nhập siêu của Việt Nam ngày càng trầm trọng hơn.
- Gặp phải khó khăn trong việc quản lý thống kê cụ thể về dòng vốn FDI: Việc FDI không được phân chia cụ thể theo các yếu tố cấu thành như vốn chủ sở hữu, vốn tiền mặt, vỗn bằng hiện vật như máy móc thiết bị, nhà xưởng, giá trị quyền sử dụng đất.. các khoản tương đương như công nghệ, bí quyết kỹ thuật sẽ khiến cho các chính sách tỷ giá tiền tệ kém linh hoạt, ảnh hưởng đến điều tiết kinh tế vĩ mô.
- Bất lợi trong quá trình chuyển giao công nghệ: Nếu việc chuyển giao công nghệ ( cả phần Cứng và phần Mềm) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu thì mặc nhiên những “Lợi thế tương đối của những nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ. Mặt khác, các nước tiếp nhận đầu tư như Việt Nam cũng không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ mà còn phải chịu gánh nặng khi phải tiến hành sản xuất với những công nghệ lỗi thời đồng thời tìm cách để cải tiến công nghệ. Do đó hiệu quả đầu tư cũng sẽ không như mong đợi, không tương xứng với nguồn vốn nước tiếp nhận đầu tư đã bỏ ra.
- Những tác động tiêu cực đến kinh tế – xã hội và môi trường: Đặc biệt là những dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đấy màu mỡ và những dự án “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn hại đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai.
3. Những ưu điểm và những hạn chế còn gặp phải trong quá trình thu hút và quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
a. Những ưu điểm
- Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành. Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn, tiếp tục cải cách hành chính, luật pháp đã giúp chúng ta có được nhưng con số thống kê ấn tượng về FDI vào Việt Nam.
- Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền