Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gây gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vân đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong mốn đặt được kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân,đến đời sống xã hội đặc biệt là giới lao động. Nét đặc trưng của thực trạng nền kinh tế có lạm phá, giá cả hầu hết các hang hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20. Lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài. Phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đế xuất phương án khác phục. Và ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và biện pháp khắc phục lạm phát tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Đề Tài:
thực trạng và biện pháp khắc phục
lạm phát ở Việt Nam
Lời mở đầu
Giới thiệu chung về lạm phát
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gây gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vân đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong mốn đặt được kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân,đến đời sống xã hội đặc biệt là giới lao động. Nét đặc trưng của thực trạng nền kinh tế có lạm phá, giá cả hầu hết các hang hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20. Lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài. Phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đế xuất phương án khác phục. Và ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Sự cần thiết phải phân tích lạm phát
Trước hết ta nói về ảnh hưởng của lạm phát. Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại
Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Các tác động khác
Vì vậy phân tích, nghiên cứu lạm phát là một điều tất yếu, cần thiết, cấp bách.
CHƯƠNG I. CÁC LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT
Các khái niệm về lạm phát
- Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi cá yêu cầu của các quy luật kinh tế hang hóa không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thong tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hóa, còn tồn tại những quan hệ hàng hóa tiền tệ thì ở đó ẩn nấu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
- Trong bộ “ Tư bản “ nổi tiếng của mình C.Mác viết: “ việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bặc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình”. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
- Theo các nhà kinh tế học hiện đại: “ Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian’. Định nghĩa này được sử dụng rộng rãi trên thị trường.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. trong thực tế nó được thay thế bằng chỉ số giá tiêu dung hoặc chỉ số bán buôn =ip.d
ip: chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
Tác động của lạm phát
Tác động đến lĩnh vực sản suất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu quả hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh ở một vài xí nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên, xét ở một góc độ nào đó, khi tỉ lệ lạm phát thấp, không ảnh hưởng đế nền kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyế khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng kích thích tiêu dung, cầu tiêu dùng tăng lên do đó hàng hóa bán chạy làm sản lượng tăng
Tác động đến lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng khi lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sán xuất sẽ gặp rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào quá trình lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán xong lại nhanh chóng bị đẩy ra khỏi kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tăng vọt thúc đẩy lạm phát gia tăng. Người giầu thùa tiền dùng tiền vơ vét, thu gom hàng hóa, tài sản làm mất cân đối cung- cầu hàng hóa, giá cả hàng hóa tăng lên làm lạm phát gia tăng
Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với sự sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa mà lâm vào khủng hoảng. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát chẳng có ai tích trữ tiền mặt. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định mà lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, vậy muốn giữ lãi suất ổn định thì lãi suấy danh nghĩa cùng một tỉ lệ với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay lại thấy có lợi lớn nhờ sự mất giá nhanh chóng của đồng tiền nên đi vây nhiều hơn. Do vậy hoạt động của ngân hàng không còn cân bằng nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế bởi khi có lạm phát không ai muốn tích trữ tiền dưới hình thức tiền mặt nữa.
Tác động đến cán cân ngân sách - chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá hủy do biến động giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời, lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi, an sinh xã hội…các ngành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đế mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên không nên chỉ nhìn nhận mặt tiêu cực của vấn đề, ở đây cũng vậy, cần thấy rằng, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều kiện thuận lợi góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bên cạnh những tác hại không đáng kể. Vì vậy, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát là bài toán luôn thường trực trên bàn nghị sự của các Chính phủ nhưng cũng khó giải nhất đối với tất cả các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế thị trường phát tiển. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Phân loại lạm phát
Có nhiều cách khác nhau để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có cách phân loại khác nhau
Căn cứ vào định lượng:
Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động được ổn định. Những tác động của lạm phát này là không đáng kể vì vậy nó thường được các nước duy trì để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lạm phát phi mã: Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số trong một năm. Lạm phát này sẽ làm cho giá cả tăng nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế. Lúc này người dân tich trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và không cho vay với mức lãi suất bình thường, ngân hàng không huy động được vốn,… Lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập, là mối đe dọa đối với sự ổn định của nền khinh tế- xã hội.
Siêu lạm phát: 3 con số 1 năm, lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng lên với tốc độ rất nhanh. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã. Lạm phát này làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng: tiền lương thực tế giảm mạnh, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng, hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng bị rối loạn, mất phương hướng
Căn cứ vào định tính
Lạm phát cân bằng: giá cả tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Giá cả tăng không tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động
Lạm phát dự đoán trước được: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời ký tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước, nên lạm phát này không gây ảnh hưởng đến đời sống – kinh tế.
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước đến giờ chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó, loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của người dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát do cầu kéo ( Demand pull – inflation):
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung - cầu. Nguyên nhân dẫn đến việc tăng cầu hoặc hàng hóa dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện.
Lạm phát do chi phí đẩy( cost push- inflation):
Lạm phát này phát sinh khi chi phí gia tăng một cách độc lập với tổng cầu. Ta có một số trường hợp chi phí đẩy:
Chi phí tiền lương: tiền lương gia tăng do áp lực từ chính sách tăng lương của chính phủ, từ áp lực của công đoàn… Cần lưu ý trường hợp tiền lương tăng lên do sức ép của thị trường, do nhu cầu mở rộng của doanh nghiệp thì chỉ được xem là lạm phát do cầu kéo.
Lợi nhuận: nếu doanh nghiệp thuộc loại có quyền lực trên thị trường (doanh nghiệp độc quyền, nhóm độc quyền), để nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận cao, doanh nghiệp sẽ đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu.
Nguồn tài nguyên cạn kiệt: khi các nguồn tài nguyên bị khai thác ngày càng cạn kiệt thì tất yếu sẽ làm cho giá cả dần tăng lên, gia tăng chi phí của doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp muốn có lời phải đẩy giá cả háng hóa tăng lên.
Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục:
Theo quan điểm cảu các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng và kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài gây lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền tệ để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều. Có nhiều nhà máy, xí nghiệp bị đóng của chưa đi vào hoạt động. Do nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao… trong trường hợp này khi tăng cung tiền tệ thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều. Từ đó các nhà máy, xí nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh. Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác, người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên. Ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm… Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh doanh tốt ) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và dài hạn, điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
Các nguyên nhân khác:
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn.
Còn đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc tiến hành trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc tiến hành trái phiếu này kéo dài sẽ làm cầu về về vốn sẽ tăng và làm lãi suất sẽ tăng cao hơn. Lúc này để giảm lãi suất trên thị trường Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó. Như thế mức cung tiền lại tăng thêm dễ gây lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.
Biện pháp khắc phục lạm phát
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. Ở mỗi nước tỷ lệ lạm phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động khác nhau. Do đó chính phủ ở các nước sẽ có những biện pháp khác nhau. Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp dụng biện pháp tình thế và các biện pháp có tính chiến lược .
Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước ta có những biện pháp điển hình sau:
Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm giảm tức thời cơn sốt lạm phát
Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Đây được gọi là biện pháp thắt chặt lượng cung tiền tệ hay còn gọi là đóng bảng tiền tệ. Cụ thể là Ngân hàng trung ương ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền đề bù đắp bội chi ngân sách nhà nước .Bên cạnh đó, để làm giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng trung ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế. Và ngân hàng cũng có thể ấn định mức lãi xuất cao, từ đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp gửi tiền không kì hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm.
Tiếp đến, đẻ khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp thắt chặt chi tiêu của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng nhanh của tổng cầu. Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm lượng cầu chi tiêu của dân cư. Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài… Một biện pháp nữa được áp dụng là cải cách tiền tệ khi tỷ lệ lạm phát tăng quá cao trong khi các biện pháp nêu trên chưa đạt được hiệu quả.
Cùng với những biện pháp tình thế, các nước còn sử dụng các biện pháp chiến lược nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và làm cho cơ số tiền tệ ổn định bền vững. Đó là các biện pháp:
Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá. Hàng hoá trong