Trong quá trình cộng cư với người Kinh (người Việt), Chăm, Hoa, người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long nói chung và người Khmer An Giang nói
riêng đã sớm hình thành một nền văn hóa phát triển, tạo nên bản sắc văn hóa của
tộc người mình, góp phần làm đa dạng trong một thể thống nhất của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ sớm hòa nhập và sống hòa thuận với
cộng đồng người Việt. Mặt khác, vẫn tôn trọng những gì thuộc về truyền thống
của đồng bào dân tộc thiểu số.
28 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 4772 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang từ nay đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình cộng cư với người Kinh (người Việt), Chăm, Hoa, người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long nói chung và người Khmer An Giang nói
riêng đã sớm hình thành một nền văn hóa phát triển, tạo nên bản sắc văn hóa của
tộc người mình, góp phần làm đa dạng trong một thể thống nhất của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ sớm hòa nhập và sống hòa thuận với
cộng đồng người Việt. Mặt khác, vẫn tôn trọng những gì thuộc về truyền thống
của đồng bào dân tộc thiểu số.
Người Khmer An Giang sống tập trung chủ yếu ở 02 huyện Tịnh Biên và
Tri Tôn, còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, Thoại Sơn.
Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong dân số toàn tỉnh nhưng đồng bào dân tộc
Khmer có một nền văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng, phong phú.
Tuy nhiên do sống ở vùng núi, sản xuất nông nghiệp là chính, lại phụ thuộc vào
thiên nhiên, tập quán canh tác lạc hậu nên đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn;
trình độ dân trí thấp, bị chi phối bởi tôn giáo, các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng
vừa chịu ảnh hưởng của đồng bào Kinh, vừa chịu ảnh hưởng từ phía Campuchia
tạo ra sự giao thoa độc đáo nhưng cũng rất phức tạp, hụt hẩng và thiếu thốn
Do đó, trong giai đoạn phát triển của đất nước hiện nay, làm sao để văn hóa dân
tộc Khmer vừa hòa mình vào cái chung của nền văn hóa Việt Nam mà vẫn giữ
được nét riêng, đặc sắc của dân tộc mình. Từ những suy nghĩ trên, tác giả chọn
đề tài nghiên cứu của mình là: “ Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy
văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang từ
nay đến năm 2015”.
2. Giới hạn của đề tài
Khảo sát thực trạng bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể và phi vật thể của
đồng bào dân tộc Khmer An Giang chủ yếu ở 02 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn từ
năm 2008 đến năm 2013, trên cơ sở đó, tác giả đề ra một số kiến nghị và giải
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 2
pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy văn hóa vật
thể và phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer An Giang từ nay nay đến năm
2015.
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng bảo tồn các loại hình văn hóa của đồng
bào dân tộc Khmer như các lễ hội dân gian, loại hình nghệ thuật, ngành nghề
truyền thống dân tộc, những kết quả đạt được và hạn chế, khó khăn trong chính
sách bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Khmer và đề ra các mục
tiêu, giải pháp khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả thực hiện.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả đã vận dụng lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở nghiên cứu và phương pháp duy vật lịch sử.
Đồng thời sử dụng các phương pháp lịch sử-logic, phương pháp thống kê,
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích tổng hợp và những phương pháp
khác có liên quan phục vụ trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.
4. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận tiểu luận gồm 3 chương:
CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận chưng về văn hóa và bảo tồn văn hóa
CHƢƠNG 2: Thực trạng công tác bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi
vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang từ năm 2008 đến năm 2013.
CHƢƠNG 3: Mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn,
phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang
từ nay đến năm 2015..
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 3
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA
VÀ BẢO TỒN VĂN HÓA.
1.1 Một số khái niệm về văn hóa và bảo tồn.
1.1.1 Khái niệm văn hóa.
Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, tùy thuộc vào những
không gian, thời gian khác nhau và những tác giả khác nhau. Điều này đã dẫn
đến việc có quá nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa được đề cập đến ở cả
phương Đông lẫn phương Tây.
Trong quyển “Nhân chủng học Văn hóa”, giáo sư Richley H.Crapo cho
rằng, hai nhà khoa học Mỹ A.L.Krober và Kluckhôn đã khảo sát 158 định nghĩa
về văn hóa. Năm 1967, Abraham Moles, nhà Văn hóa học Pháp cho rằng, có
250 định nghĩa về văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa Từ Hồng Hưng
cho rằng, có đến “hàng nghìn định nghĩa về văn hóa” [19;10].
Nhà ngôn ngữ học người Đức W.Wundt cho rằng: Văn hóa là một từ có
căn gốc Latinh: Colere, sau trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ
nét nghĩ này về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh
thần, trí tuệ. Thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, nhà hùng biện thời La Mã
Cicéron có câu nói nổi tiếng: “Triết học là văn hóa tinh thần” [9;13]. Quay sang
phương Đông, ở Trung Quốc, từ văn hóa đã xuất hiện trong đời sống ngôn ngữ
ở thời Tây Hán (206 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên), hai từ văn và
hóa đã được kết hợp lại thành văn hóa, và nhìn chung có hàm nghĩa: Dung, Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, điển chương, chế độ để giáo hóa dân chúng. [9;14].
Cùng với thời gian, hàm nghĩa văn hóa không ngừng đươc mở rộng
nhưng “văn hóa là gì?” vẫn là một vấn đề luôn được đặt ra để đón nhận những
lời giải đáp ngày càng thấu đáo và đầy đủ hơn. Những năm thập niên cuối cùng
của thế kỉ XX, vấn đề văn hóa được quan tâm, được xem là yếu tố có vị trí quan
trọng để vừa bảo tồn dân tộc, vừa phát triển dân tộc. Tại lễ phát động Thập kỉ
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 4
thế giới phát triển văn hóa tổ chức tại Paris ngày 21/1/1988, Tổng giám đốc
UNESCO Federico Mayor lại đưa ra định nghĩa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện
một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra
trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó
đã cấu thành nên hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [13;22].
Bên cạnh đó, trong các bộ Từ điển bách khoa và các từ điển chuyên ngành
của các nước, từ văn hóa cũng có một vị trí xứng đáng với những lời giải thích
khá đầy đủ và sâu sắc: “Văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn
ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mĩ những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ việc
tổ chức môi trường con người những công cụ, nhà ở và nói chung toàn bộ
công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và ứng xử của một
nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó” (Bách khoa toàn thư Pháp)
[6;35].
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện rất lâu trong ngôn ngữ Hán, du nhập vào
Việt Nam từ hơn 2000 năm trước [1;10]. Cho đến nay có rất nhiều khái niệm
khác nhau được các giáo sư, các nhà văn hóa học Việt Nam nêu lên. P. Giáo Sư,
Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [14;10]. Theo ông, văn hóa có bốn đặc trưng cơ bản:
tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh.
- Khái niệm Văn hóa vật thể:
Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống
tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng
tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị
sử dụng và thẫm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Văn hóa vật thể quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối tượng
thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 5
thông qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho
cuộc sống của con người
Trong VHVT, người ta sử dụng nhiều kiểu phương tiện, tài nguyên, năng
lượng, dụng cụ lao đọng, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con
người, phương tiện giao thông, truyền thồng, nhà cửa, công trình xây dựng phục
vụ nhu cầu ăn ở, ; làm việc và giải trí, các phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối
quan hệ kinh tế...Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đều là kết quả lao động của
con người.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm các sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
khoa học bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, danh lam, thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật...
- Khái niệm Văn hóa phi vật thể:
Văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu
đạt, tri thức, kỷ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật khác và các
không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số
trường hợp cá nhân công nhân là một phần di sản văn hóa của họ.
Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật
thể được cộng đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường
và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng tự nhiện và lịch sử của họ, đồng thời
hình thành trong ý thức họ về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn
trọng đối với sự đa dạng văn hóa những sáng tạo của con người.
Di sản văn hóa phi vật thể: gồm
a) Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
b) Ngữ văn dân gian (sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt
khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết).
c) Nghệ thuật trình diễn dân gian (âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các
hình thức trình diễn dân gian khác).
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 6
d) Tập quán xã hội (luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và
các phong tục khác).
đ) Lễ hội truyền thống;
e) Nghề thủ công truyền thống;
f) Tri thức dân gian, bao gồm: tri thức về thiên nhiên, đời sống con người, lao
động sản xuất, y, dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác.
1.1.2 Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa:
Theo định nghĩa của IUCN (1991): “Bảo tồn là sự quản lý, sử dụng của con
người về sinh quyển nhằm thu được lợi nhuận bền vững cho thế hệ hiện tại trong
khi vẫn duy trì tiềm năng để đáp ứng những yêu cầu và nguyện vọng của thế hệ
tương lai”.
Di sản văn hóa là các sản phẩm, các giá trị văn hóa do các thế hệ trước sáng
tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, bao gồm các di sản vật thể và phi vật thể (di
sản tinh thần). Di sản văn hóa có tác dụng: gắn kết cộng đồng dân tộc; tạo nên
bản sắc văn hóa dân tộc; cơ sở để sáng tạo các giá trị mới; cơ sở để giao lưu văn
hóa với các cộng đồng khác.
Bảo tồn các di sản văn hóa là một hoạt động nhằm mục đích lưu giữ , bảo
vệ các di sản văn hóa đang có nguy cơ biến mất vì lý do này hay lý do khác. Bảo
tồn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như việc điều tra, nghiên cứu, bảo quản,
tu bổ, phục dựng. Bảo tồn được coi là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với
những yêu cầu về kỹ năng riêng biệt. Bên cạnh đó việc bảo tồn các di sản văn
hóa vật thể phải tuân thủ các nguyên tắc về việc trùng tu, tôn tạo, bảo quản.
Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa đòi hỏi phải nghiên cứu, phân
tích, chọn lựa các yếu tố tích cực trong di sản để kế thừa, nâng cao và sáng tạo
ra những giá trị văn hóa mới.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về
văn hóa.
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 7
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một hệ thống các quan điểm lý luận
mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Nó chắc lọc, tổng hợp và kết tinh được những giá trị văn hóa của phương
Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế trong đó cốt
lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa và bản sắc dân tộc
Việt Nam [10;13].
Trong khi các nhà văn hóa trên thế giới còn bàn cãi về khái niệm văn hóa,
đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau, thì mấy ai biết từ năm 1942, Chủ tịch
Hồ Chí Minh có một định nghĩa rất đúng về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[7;409]. Như vậy, các quan điểm, tư tưởng cơ bản nói trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển
nền văn hóa nước ta. Những lời dạy của Người không chỉ có tầm chiến lược mà
còn có ý nghĩa chỉ đạo cụ thể trong công việc hằng ngày của chúng ta.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác
văn hóa, xác định công tác văn hóa là một bộ phận của cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ thành lập Đảng (1922 -1930) với tiêu điểm là Luận cương chính trị
năm 1930. Thời kỳ từ 1930 – 1960: đáng chú ý có Đề cương văn hóa (1943),
văn kiện Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (1948) của cố Tổng Bí thư
Trường Chinh và Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951). Thời kỳ 1960 – 1985: quan điểm của
Đảng thể hiện qua các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V.
Thời kỳ từ năm 1986 đến nay: quan điểm của Đảng ta được thể hiện trong các
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 8
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI và
các Nghị quyết của Bộ chính trị, của Ban Bí thư khóa VI, VII và Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII kỳ hợp thứ tư, khóa VIII kỳ hợp thứ năm.
Từ tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam mà Đề cương văn hóa 1943
trình bày: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về
hình thức và dân chủ về nội dung” [9;23].
Từ năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” [9;25].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng lại tiếp tục khẳng định
rõ hơn quan điểm này. Đại hội xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”
[3;110].
Năm 1998, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII họp Hội nghị lần thứ
năm đề ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.. Điểm mới này, một mặt thể hiện rất rõ ở những quan
điểm chỉ đạo cơ bản về văn hóa, trong đó đặc biệt là 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản
về xây dựng và phát triển văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa
mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thúc giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một
mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài,
đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. [11;533].
Tiếp theo đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tiếp
tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 9
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
[4;115]. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ
văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách người Việt Nam
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [5;284].
Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí Thư đã chỉ rõ “Tôn
trọng, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa chùa chiền Khmer kết hợp với nội dung
văn hóa mới...nghiên cứu đưa một số chùa Khmer có ý nghĩa tiêu biểu về lịch sử
- văn hóa vào danh mục xếp hạng của Nhà nước”
1.3. Chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về văn hóa:
Xuất phát từ những quan điểm của Đảng được Nhà nước ta thể chế hóa
trong Hiến pháp năm 1992 được quy định như sau:
Chương III, điều 30 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển
nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những
giá trị của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng
tạo trong nhân dân”.
Nghị định số 39/1998/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “đẩy mạnh
công tác văn hóa thông tin ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi” và
Quyết định số 124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi”.
Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 23/10/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh về phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010
và định hướng đến năm 2015.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 10
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HÓA VẬT
THỂ, PHI VẬT THỂ CỦA ĐỒNG BÀO KHMER TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Khái quát về tỉnh An Giang và ngƣời Khmer An Giang:
Tỉnh An Giang nằm ở địa đầu Tây Nam của lãnh thổ Việt Nam. Phía Bắc
và Tây Bắc tiếp giáp Campuchia với đường biên giới dài 104 km, chạy dọc theo
kênh Vĩnh Tế. Phía Tây Nam tỉnh Kiên Giang, đường ranh giới dài 69,789 km.
Phía Nam có 44,734 km đất đai tiếp giáp với thành phố Cần Thơ. Phía Đông và
Đông Nam giáp tỉnh Đồng Tháp, ngăn cách bởi sông Tiền và rạch Cái Tàu
Thượng, chiều dài đường ranh giới là 107,6 km. Diện tích tự nhiên: 3.537 km².
Lãnh thổ An Giang bao gồm hai vùng: dãy cù lao nằm giữa sông Tiền – sông
Hậu, bao gồm các huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; dãy đất nằm
dọc bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, bao gồm các
huyện: Châu Phú, Châu Thành, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, thị xã Châu
Đốc và thành phố Long Xuyên.
Dân số tỉnh An Giang có khoảng 2,14 triệu người, mật độ dân số 600
người/km2. Dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị và vùng
đồng bằng ven sông Tiền, sông Hậu, chiếm khoảng 89% dân số; vùng đồi núi
phía Tây và Tây Nam dân cư thưa thớt hơn, chỉ khoảng 11% dân số. Dân tộc
Khmer có 90.271 người, chiếm tỉ lệ 4,2% dân số toàn tỉnh, sống tập trung ở 2
huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên; số còn lại sống rải rác ở một số huyện khác
như Châu Thành, Thoại Sơn. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước.
Người Khmer còn thạo nghề đánh cá, dệt chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt
nốt và làm gốm với kỹ thuật đơn giản.
Dân tộc Khmer sống thành các điểm tụ cư gọi là Phum, Sóc (tương tự như
thôn, ấp của người Kinh). Người Khmer trước đây ở nhà sàn, kiểu nhà sàn phù
hợp với mùa nước lũ hàng năm, cao đến 5- 7 mét, 3 gian quay về hướng đông,
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 11
làm bằng gỗ lợp ngói hay tranh, rơm rạ. Hiện nay, người Khmer sống trong các
ngôi nhà trệt, mái lá, vách lá đơn giản.
Về y phục, trước đây nam nữ đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự
dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu và áo sơ mi. Những người già,
người lớn tuổi thường mặc quần áo bà ba với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu
hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc