Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ. Với khoảng hơn 2000 doanh nghiệp, trong đó đa số có quy mô vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ, tay nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín thương hiệu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các tập đoàn dệt may lớn trên thế giới. Dệt may Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia công, đặt mình vào vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì thế, khi Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu vào thi trường thế giới, sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi rất nhiều nơi và Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về lại rất thấp.
36 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11842 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ. Với khoảng hơn 2000 doanh nghiệp, trong đó đa số có quy mô vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ, tay nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín thương hiệu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các tập đoàn dệt may lớn trên thế giới. Dệt may Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia công, đặt mình vào vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì thế, khi Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu vào thi trường thế giới, sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi rất nhiều nơi và Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về lại rất thấp.
Với mục đích tìm hiểu về những vấn đề nổi bật liên quan đến thực trạng và giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu và với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Đoàn Thị Thu Hà, em đã quyết định chọn đề tài này. Nội dung bài làm gồm có 3 phần:
Lý thuyết chung về chuỗi giá trị
Thực trạng về Ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Giải pháp để ngành dệt may Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu
Mặc dù bản thân đã cố gắng, nỗ lực hết mình nhưng trong quá trình viết đề tài không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Vì vậy, em mong thầy cô góp ý để lần sau em viết được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ
Thế nào là chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị, cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm từ quản lý kinh donah đầu tiên đã được mô tả và phổ cập bởi Michael Porter vào năm 1985.
Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của các chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại. Điều quan trọng là không để pha trộn các khái niệm của chuỗi giá trị với các chi phí xảy ra trong suốt các hoạt động. Cắt kim cương có thể đươco dùng làm ví sụ cho sự khác nhau này. Việc cắt có thể chỉ tốn một chi phí thấp, nhưng việc đó thêm vào nhiều giá trị cho sản phẩm cuối cùng, vì một viên kim cương thô thì rẻ hơn rất nhiều so với viên kim cương đã đươc cắt.
Chuỗi giá trị là một liên minh giữa các doanh nghiệp liên kết dọc để đạt những vị thế xứng đáng hơn trên thương trường, hợp tác tạo ra giá trị và giảm chi phí. Các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị độc lập về mặt pháp lý, nhưng trở nên phụ thuộc lẫn nhau, vì họ có những mục tiêu chung và hoạt động để đạt được điều đó. Họ cùng làm việc với nhau trong thời gian dài, cùng thảo luận và giải quyết vấn đề sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Mối quan hệ này nhiều khi rất đơn giản, nhưng bền chặt hơn cả những hợp đồng lâu dài và nhiều khi tạo nên những giá trị lớn hơn nhiều những gì nó vốn có.
Trong thời đại toàn cầu hóa, nền kinh tế của một quốc gia có xu hướng bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế, mà hình thức hoạt động chính là mạng lưới dày đặc các công ty mẹ và chi nhánh các công ty con, cháu ở rất nhiều quốc gia khác nhau. Ở phạm vi quốc tế, các giá trị hình thành từ những công đoạn khác nhau của một ngành kinh doanh nào đó sẽ trở thành dòng chảy giá trị gia tăng toàn cầu, từ đó ra đời khái niệm “chuỗi giá trị toàn cầu”.. Theo Michael Porter, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động để đưa sản phẩm từ một khái niệm cho đến khi đưa vào sử dụng và cả dịch vụ sau bán hàng.
Như vậy, chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chain). Theo cách nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị.
Vai trò của chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là một hệ thống các hoạt động trao đổi được tổ chức chặt chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, nhằm mục đích tạo ra giá trị và tính cạnh tranh cao hơn. Đặc điểm chính của chuỗi giá trị là tạo ra liên kết doanh nghiệp thông qua việc những bên tham gia vào chuỗi giá trị làm việc cùng nhau, trên cơ sở liên kết công nghiệp - thương mại.
Tham gia liên kết chuỗi sẽ làm cho doanh nghiệp mạnh lên, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lợi ích mà chuỗi giá trị đem lại đó là: những cơ hội tiếp cận thị trường, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất, thị trường được đảm bảo, cơ hội tạo ra những giá trị lớn hơn từ một thị trường chung và khả năng quản lý rủi ro. Vào chuỗi doanh nghiệp có thể chuyên môn hóa được mặt hàng mà mình có thế mạnh, trong khi vẫn nhận được các đơn hàng đa dạng nhờ chia sẻ cho các doanh nghiệp khác trong chuỗi; phân công lao động cụ thể hơn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực; các doanh nghiệp có thể giảm được thời gian tìm kiếm người cung ứng, tăng cường được sự ổn định, đảm bảo tiến độ, chia sẻ thông tin và tin cậy giữa các bên tham gia.
Tuy nhiên, liên kết chuỗi tức là doanh nghiệp phải đồng sức, đồng lòng, nếu vẫn giữ quan điểm “mạnh ai nấy làm” thì sẽ không thể thành công và mô hình liên kết chuỗi không phát huy được hiệu qủa. Chuỗi liên kết đòi hỏi tinh thần hợp tác rất cao của mỗi doanh nghiệp thành viên.
II. THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
Vài nét về ngành dệt may Việt Nam
Ngành Dệt may Việt Nam có bề dày lịch sử phát triển, đóng góp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện rõ nét ở hai điểm nổi bật là tạo việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động trong số khoảng 6 triệu lao động công nghiệp và định vị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong bản đồ thương mại quốc tế.
Khi Việt Nam tham gia trên một sân chơi rộng khắp toàn cầu, ngành dệt may đã tận dụng những cơ hội mang lại và phần nào đã chuyển những thách thức thành những kết quả đáng ghi nhận của ngành: Giá trị sản xuất tăng 17,9% so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu dệt may chiếm từ 15-17 trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2007, ngành đạt kim ngạch xuất khẩu 7,78 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006, tăng hơn năm 2006 gần 2tỷ USD. 9 tháng đầu năm 2008 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế tại Hoa Kỳ… dẫn đến mức tiêu dùng và nhập khẩu dệt may giảm mạnh tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng lên. Hiện nay, ngành Dệt May Việt Nam đang đứng thứ 10 trong số 153 nước xuất khẩu dệt may trên thế giới, đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, sau dầu thô.
Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng vẫn đang là vấn đề lớn đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam. Công nghệ nhuộm và may các sản phẩm cao cấp chậm được cải tiến, chủ yếu là công nghệ trung bình. Giải quyết được việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động nhưng tỷ lệ lao động có tay nghề cao, có kỹ năng kỹ xảo là rất thấp. Công nghiệp phụ trợ ngành Dệt May chưa phát triển, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong nhiều năm. Năm 2007, Ngành vẫn phải nhập khẩu tới 90% bông, gần 100% các loại xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị và phụ tùng, 70% vải và 50 đến 70% các loại phụ liệu cho may xuất khẩu. Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh ngành Dệt May thấp; giá trị gia tăng (VA) thấp, tỷ suất giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất công nghiệp (VA/GO) có xu hướng giảm, tỷ suất lợi nhuận có được từ khoảng 5% đến 10%, chủ yếu tập trung vào khâu gia công. Phân bố không gian chưa thực sự hợp lý cũng đang là sức ép lớn cho xã hội và môi trường.
Gia nhập WTO, ngành Dệt May Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi và cơ hội; chủ động hơn trong quá trình phát triển thị trường nước ngoài, đặc biệt là giảm áp lực từ các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài, giảm chi phí sản xuất và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm thông qua công cụ giá cả. Tuy nhiên, ngành sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khi mà chúng ta vẫn là “công xưởng” của thế giới. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành Dệt May, Việt Nam chỉ mới tham gia chủ yếu vào khâu gia công sản phẩm cuối cùng với giá trị gia tăng rất thấp. Do đó, việc thâm nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu này là hết sức cần thiết để ngành Dệt May phát huy hơn nữa vai trò trong nền kinh tế.
Dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Trước đây, ngành may mặc toàn cầu đặc trưng bởi rất nhiều nước xuất khẩu do hệ thống quota MFA tạo ra, nhưng mức độ tập trung xuất khẩu đang tăng nhanh. Chuỗi cung ứng hàng may mặc được đánh dấu bằng sự chuyên môn hóa đáng kể theo nước. Các nước có thu nhập cao hơn thường thống lĩnh các lĩnh vực cần đầu tư vốn nhiều hơn, trong khi các nước có thu nhập thấp hơn tập trung vào lĩnh vực cần nhiều lao động. Lĩnh vực hoạt động cần nhiều lao động nhất là sản xuất may mặc, sau đó là dệt (sợi và vải). Những lĩnh vực cần vốn đầu tư lớn nhất như sản xuất xơ sợi nhân tạo và chế tạo thiết bị là thượng nguồn, nơi mà các hàng rào ngày càng cao hơn. Do các nước phát triển giàu hơn và lương tăng, lợi thế so sánh trong sản xuất bị mất dần đi, và phải chuyển trọng tâm sang các sản phẩm có giá trị cao hơn hoặc sang các sản phẩm chế tạo với sự tập trung lao động thấp hơn.
Việc phân công lao động giữa các nước tại những mức độ phát triển khác nhau hình thành nên sự nâng cấp công nghiệp trong chuỗi giá trị may mặc. Những lĩnh vực chính trong chuỗi may mặc-như may mặc, dệt, xơ sợi và thiết bị được sắp đặt dọc theo chiều ngang và nó phản ánh mức độ giá trị gia tăng tương đối từ thấp lên cao khi tăng vốn đầu tư. Ở Châu Á Các nước được nhóm theo trục dọc theo mức độ phát triển tương đối của mình, với Nhật bản đứng đầu, Trung quốc và Ấn độ ở mức giữa, và các nước xuất khẩu kém phát triển nhất như Bangladesh, Cambodia, và Việt nam đứng cuối.
Đầu tiên, các nước có xu hướng tiến bộ từ các lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp lên cao trong chuỗi thời trang theo thời gian. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc xem xét toàn bộ các bước giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất (nguyên liệu, cấu kiện, hàng thành phẩm, dịch vụ liên quan, và thiết bị ) hơn là chỉ xem xét sản phẩm cuối cùng. Thứ 2 là có sự phân công lao động khu vực trong chuỗi giá trị may mặc, nơi các nước có mức độ phát triển khác nhau tạo thành 1 hệ thống thang bậc nhiều lớp với vai trò xuất khẩu khác nhau (ví dụ Mỹ thường đưa ra thiết kế sản phẩm và đơn hàng lớn, Nhật bản cung cấp thiết bị may, các nền kinh tế mới nổi tại Đông Á (NIEs) cung cấp vải, và các nền kinh tế châu Á khác có mức lương thấp như Trung quốc, Indonesia, hoặc Việt nam may hàng may mặc). Sự nâng cấp công nghiệp xảy ra khi các nước thay đổi vai trò của mình trong hệ thống thang bậc xuất khẩu đó. Cuối cùng là, các nền kinh tế tiên tiến như Nhật bản và các nước NIE Đông Á không muốn rời xa ngành này khi hàng thành phẩm của họ trong chuỗi đã trở nên chín muồi, theo mô hình “vòng đời sản phẩm”, nhưng họ lại đầu tư vốn dựa trên kiến thức sản xuất và hệ thống phân phối của mình, do vậy chuyển dịch sang những giai đoạn giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi may mặc.
Hiện nay, Trên thị trường dệt may toàn cầu, Trung Quốc là lực lượng chính- là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất Thế giới. Tuy nhiên, Nhiều nước xuất khẩu hàng dệt may khác có chi phí lao động thấp hơn Trung Quốc như Bangladesh, Sri Lanka và Việt Nam đã bắt đầu mở rộng thị phần. Bên cạnh đó, nhiều thị trường nhập khẩu lớn trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản cũng muốn giảm sự phụ thuộc nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc và đã chuyển hướng hợp tác sang các nhà sản xuất châu Á khác.
Theo các nghiên cứu đã được công bố, chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm các khâu: sản xuất nguyên, phụ liệu; thiết kế thời trang; may gia công; marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng; và được tính toán, phân chia giá trị theo biểu đồ dưới đây:
Giá trị đóng góp vào SP
Thiết kế 5%
Công đoạn
Sx nguyên phụ liệu 18%
Marketing và phân phối 70%
Gia công 7%
Từ biểu đồ trên cho thấy, giá trị gia tăng của các công đoạn góp phần vào giá trị sản phẩm.
Thiết kế mẫu mã
Đầu tư để làm chủ khâu thiết kể thời trang, có thể chủ động đưa ra các mẫu mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới. Khi được thị trường chấp nhận thì giá trị của khâu này trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 5%.
Đây là khâu rất quan trọng đòi hỏi trình độ cao và tiền công cao hơn- khâu có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, nhưng lại là khâu yếu nhất của ngành may mặc Việt Nam. Chỉ khoảng 30% giá trị xuất khẩu của ngành dưới dạng FOB (tức là có tham gia vào khâu ý tưởng của thiết kế) còn lại xuất khẩu dưới dạng hình thức gia công. Thiết kế kiểu dáng chủ yếu được làm ở các trung tâm thời trang thế giới tại Paris, London, New York... ở khu vực Mỹ, Châu Âu. Vải được sản xuất ở Trung Quốc, các phụ liệu đầu vào khác được sản xuất tại Ấn Độ.
Sản xuất nguyên, phụ liệu
Phát triển sản xuất nguyên phụ liệu , kể cả đầu tư để phát triển thượng nguồn ( bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác. Làm chủ được khâu này giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 18%.
Những năm gần đây, công nghiệp lọc hoá dầu phát triển đã mở ra cho chúng ta một triển vọng mới trong việc tự túc các loại bông xơ nhân tạo. Tuy nhiên, việc phát triển bông tự nhiên, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong nhiều năm (khoảng hơn 10 năm), nhưng kết quả còn rất khiêm tốn. Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài
2.1.3. Sản xuất gia công
Khâu gia công sản phẩm, toàn bộ khâu này( cắt, may, hoàn thiện, đóng gói, vận chuyển…) chiếm giá trị là 5 -7 % trong chuỗi giá trị toàn cầu ( bao gồm cả các thủ tục xuất nhập khẩu).
Sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở những nước có chi phí nhân công thấp như Việt Nam, Trung Quốc. Đây là khâu có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất chỉ chiếm 5-7%. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho khách hàng theo hình thức CMT hoặc CMP có hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp. Có tới 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham gia vào khâu này,
Marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng
Cuối cùng vươn lên, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để bán sản phẩm cho các nhà buôn( không phải qua các trung gian môi giới) thậm chí có thể bán đến tận tay người tiêu dùng… Giá trị của khâu này lên tới 70% trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khâu thương mại hoá, ngành Dệt May Việt Nam mới chỉ thực sự mạnh về khâu thương mại hoá trong nước, thương mại hoá ở các thị trường xuất khẩu còn yếu. Mặc dù đã bước đầu có xuất khẩu dạng FOB, song tỷ lệ rất thấp, trong các doanh nghiệp may, chủ yếu vẫn là xuất khẩu dạng CIF.
Tại thị trường trong nước, nhiều doanh nghiệp may đã có những quyết sách marketing thành công; Tổng công ty May Việt Tiến với chiến lược Marketing chiếm lĩnh thị trường phía Bắc, Công ty Cổ phần May 10 cũng có danh tiếng tại thị trường phía Bắc... Tuy nhiên, còn rất nhiều doanh nghiệp đang yếu năng lực marketing – công cụ nền tảng của việc tạo dựng hệ thống phân phối hiệu quả. Khâu phân phối chưa có sự tham gia của các hãng phân phối lớn và chuyên nghiệp, chủ yếu các doanh nghiệp tự thực hiện phân phối thông qua hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các đại lý nhỏ lẻ của tư nhân.
Trong chuỗi giá trị, Các nhà phân phối thường chính là các nhà thiết kế, vì hơn ai hết, chính là người tường tận nhất nhu cầu và điều kiện để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Vì thế, sau khi Việt Nam gia công hoàn thiện, sản phẩm được đưa trở lại thị trường do các công ty thương mại danh tiếng đảm nhận bán ra.Các chuyên gia trong ngành dệt may ước tính, tới 70% lợi nhuận (tính trên 1 sản phẩm may mặc từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chuỗi giá trị). Và để tăng giá trị gia tăng cho toàn Ngành, việc chú trọng vào khâu thương mại hoá nhằm gia tăng giá trị cảm nhận của sản phẩm, tăng khối lượng tiêu thụ, kích thích tiêu dùng thực sự cần chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá.
Việt Nam chủ yếu tham gia vào khâu sản xuất( gia công) nên tạo ra giá trị gia tăng rất ít
Sơ đồ về khâu gia công ở Việt Nam:
Doanh nghiệp Dệt may Việt Nam (cắt may, hoàn thiện)
Đối tác nước ngoài (người đặt gia công)
Cung cấp các yếu tố đầu vào của sản phẩm dệt may
Sản phẩm dệt may hoàn thiện
Trở thành thành viên của WTO, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu tăng lên. Tuy nhiên, để có thể phát huy được ưu thế này, ngành Dệt may Việt Nam còn nhiều vấn đề cần phải tập trung giải quyết. Thực tiễn cho thấy, để có thể xuất được số hàng dệt may trị giá 7,75 tỉ USD, Việt Nam phải chi tới 5,2-5,3 tỷ USD để nhập nguyên phụ liệu sản xuất. Như vậy, giá trị mà ngành Dệt may tạo ra để thực hưởng vẫn quá khiêm tốn, chỉ khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng chính là tồn tại mà ngành này vẫn chưa xóa được đặc thù của mình là gia công. Phần nhiều các sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường như EU, Hoa Kỳ được tiến hành qua một trung gian thứ ba là các đối tác như Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan... Với vai trò là những nhà thầu phụ (sub- suppliers), các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc của Việt Nam cung cấp hàng hóa theo các hợp đồng ký kết với những đối tác này và giao hàng thẳng cho các nhà bán lẻ của Hoa Kỳ và EU hoặc cũng có thể giao trực tiếp cho những đối tác này. Vì vậy, hình thức xuất khẩu này làm cho việc xuất khẩu hàng may mặc của các doanh nghiệp may Việt Nam trở nên thụ động, phụ thuộc vào nước thứ ba, dẫn đến giá trị xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế.
Hiện nay, hoạt động trong khu vực hạ nguồn của dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho khách hàng theo hình thức CMT hoặc CMP có hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp. Có tới 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham gia vào khâu này, các doanh nghiệp gia công cho các thương hiệu nổi tiếng và hầu như không có đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Phần đóng góp của phía Việt Nam vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào khoảng 11%, đối với áo sơ mi là 25%, quần dài là 15% và các sản phẩm khác luôn dưới mức 25%. Trong năm 2006, ngành dệt may VN xuất khẩu hàng hóa trị giá 5,83 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng 20,5% so với năm trước và chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên toàn bộ thị trường trong nước chỉ đạt doanh số khoảng 1,8 tỷ USD. Như vậy, các doanh nghiệp VN không có vai trò lớn trong quá trình hình thành và phân phối các sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới. Sự xuất khẩu dệt may bằng con đường gia công làm các doanh nghiệp VN không được tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cho nên không có khả năng dự đoán nắm bắt nhu cầu để chuẩn bị kế hoạch sản xuất, dẫn đến bị động khi có sự thay đổi nhu cầu, làm các doanh nghiệp dệt may bị phụ thuộc chặt chẽ vào đối tác đặt hàng gia công. Khi lợi thế về chi phí gia công không còn thì các doanh nghiệp VN khó có thể tự xuất khẩu vào thị trường này. Vì khi chúng ta gia công cho nước ngoài hàng hoá đó không được gán nhãn mác của các doanh nghiệp dệt may VN mà chúng mang nhãn mác của các nhà phân phối. Do hình thức gia công xuất khẩu các doanh nghiệp chỉ thực hiện duy nhất công đoạn sản xuất còn lại các công đọan khác là hoàn toàn do đối tác đặt gia công chịu trách nhiệm. Cho nên hình thức gia công này là tương đối an toàn, và phù hợp với các DN dệt may có quy mô nhỏ và lượng vốn có hạn hẹp vì nó tránh được những rủi ro trong quá trình nghiên cứu thiết kế sản phẩm, cũng như quá trình phân phối sản phẩm. Tuy nhiên cùng với việc tránh được các rủi ro thì giá trị xuất khẩu mang lại