Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua đã có một loạt những cải cách mang lại những kết quả đáng khích lệ như Luật Doanh nghiệp (năm 2000) và Nghị định Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm 2001), tạo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân.
Mặc dù môi trường hoạt động đã dần được cải thiện, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá trình tăng trưởng. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được hưởng một sân chơi bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Những hạn chế về khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và công nghệ hiện đại vẫn là những rào cản làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập đồng thời cũng thiếu công cụ quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thông tin và các mối liên hệ với các thị trường xuất khẩu.
Có thể nói Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mới có hiệu lực từ năm 1999 đã có những đóng góp đáng kể cho việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy nhiều tiềm năng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập trong cả nước tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như tạo thêm việc làm, thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập và đa dạng hóa thu nhập dân cư, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ hỗ trợ và ưu đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn.
Vì vậy, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”.
79 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2085 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Đề Tài:
Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua đã có một loạt những cải cách mang lại những kết quả đáng khích lệ như Luật Doanh nghiệp (năm 2000) và Nghị định Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm 2001), tạo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân.
Mặc dù môi trường hoạt động đã dần được cải thiện, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá trình tăng trưởng. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được hưởng một sân chơi bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Những hạn chế về khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và công nghệ hiện đại vẫn là những rào cản làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập đồng thời cũng thiếu công cụ quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thông tin và các mối liên hệ với các thị trường xuất khẩu.
Có thể nói Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mới có hiệu lực từ năm 1999 đã có những đóng góp đáng kể cho việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy nhiều tiềm năng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập trong cả nước tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như tạo thêm việc làm, thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập và đa dạng hóa thu nhập dân cư, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ hỗ trợ và ưu đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn.
Vì vậy, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài gồm có các phần sau:
Mục lục
Lời mở đầu
Phần 1: Lý luận chung
Phần 2: Thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Phần 3: Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Em xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới TS. NGUYỄN BẠCH NGUYỆT đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG
I. Đầu tư và đầu tư phát triển
1. Khái niệm
Xuất phát từ phạm vi tác dụng của các kết quả hoạt động đầu tư, chúng ta có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì mà mình đã bỏ ra. Do vậy, nền kinh tế không xem những hoạt động như gửi tiền tiết kiệm là hoạt động đầu tư vì nó không làm tăng của cải cho nền kinh tế mặc dù người gửi vẫn có khoản thu lớn hơn so với số tiền gửi. Từ đó, người ta biết đến một định nghĩa hẹp hơn về dầu tư hay chính là định nghĩa về đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống, vốn đầu tư phát triển chỉ là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vây, về thực chất, vốn đầu tư phát triển chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Theo khái niệm đầu tư phát triển vừa nêu ở trên, vốn đầu tư phát triển dược quan niệm là những chi phí bỏ ra găn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội. Nghĩa là, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư, mặt bằng dân trí, bảo vệ môii trường sinh thái,... Nói cách khác, vốn đầu tư phát triển có thể chia thành các nội dung cơ bản sau: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển khác. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động đầu tư diễn ra một cách sôi nổi và thường xuyên từ những hoạt động lớn đến những hoạt động trưởng chừng như bình thường: Nhà nước đầu tư xây dựng cầu đường, một gia đình cho con đi học, một doanh nghiệp mua thêm máy móc để sản xuất thêm sản phẩm...
Trong phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài xin đi sâu vào phân tích hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp nhỏ và vừa - một lực lượng đông đảo có những đóng góp lớn vào công cuộc đầu tư phát triển của nền kinh tế.
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Sở dĩ như vậy là do đầu tư phát triển có những đặc điểm riêng có khác biệt với những loại hình đầu tư khác.
Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã đem vốn đầu tư vào dự án này thì không thể sử dụng vốn đó cho một dự án khác. Đặc điểm này của hoạt động đầu tư buộc các nhà đầu tư phải suy nghĩ, cân nhắc rất kỹ trước khi lựa chon dự án và đưa ra quyết định đầu tư.
Thứ hai, thời gian tiến hành hoạt động đầu tư và kết quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng lâu dài. Để có được một tài sản cố định có thể phát huy tác dụng một cách độc lập trong nền kinh tế thì cần một khoảng thời gian rất dài. Ví dụ: để xây dựng một nhà máy sản xuất mới, chủ đầu tư phải trải qua nhiều giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư với rất nhiều công việc. Nhưng bù vào đó, nhà máy lại có thể hoạt động trong một thời gian dài đủ cho nhà đầu tư thu hồi lại những chi phí đã bỏ ra, đồng thời có được một khoản lợi nhuận hợp lý. Thêm vào đó là những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như Kim Tự Tháp ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, vạn lý trường thành ở Trung Quốc... Điều này nói lên giá trị to lớn của các thành quả đầu tư phát triển.
Do hoạt động đầu tư phát triển cần lượng vốn lớn và tồn tại lâu dài nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Có những yếu tố đã được nhận dạng, tính toán từ trước, nhưng cũng có những yếu tố bất định xảy ra bất ngờ, không thể lường trước được. Những yếu tố này tác động đến hoạt động đầu tư theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Thông thường những tác động tích cực thì ít mà tác động tiêu cực thì nhiều, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đầu tư. Từ việc thời gian để tiến hành hoạt động đầu tư đến thời gian vận hành kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn kéo dài làm cho công cuộc đầu tư chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế... Hoạt động đầu tư còn chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố địa hình nơi công cuộc đầu tư được tiến hành bởi một đặc điểm riêng có của hoạt động đầu tư là kết quả vận hành ngay tại nơi sản xuất, xây dựng.
Với những đặc điểm nêu trên, hoạt động đầu tư yêu cầu chủ đầu tư cũng như toàn bộ nền kinh tế phải quan tâm đến rất nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên... để hoạt động đầu tư có thể diễn ra đúng như kế hoạch và mang lại kết quả như mong muốn.
3. Vai trò của đầu tư
Như trên đã phân tích, đầu tư là hoạt động hy sinh nguồn lực ở hiện tại để có thể thu lại những kết quả cao hơn trong tương lai. Thực tế thế giới và tình hình Việt Nam từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đến nền kinh tế thị trường đã chứng minh nếu không có đầu tư phát triển thì không có sự tăng trưởng và phát triển, nền kinh tế sẽ lâm vào thoái trào và đình trệ, đời sống người dân sẽ ngày càng nghèo khó... Trong thời đại hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế và là chìa khóa của sự tăng trưởng, hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực cũng như toàn thế giới. Đầu tư phát triển có những vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp nói riêng.
3.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư là một yếu tố quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24~28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng lên, kéo theo sản lượng cân bằng tăng lên và giá cả của hàng hóa cũng tăng lên. Ngược lại với tổng cầu, đầu tư tác động đến tổng cung trong dài hạn. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới được sử dụng thì tổng cung tăng lên, kéo theo sản lượng tăng lên và giá cả hàng hóa giảm. Theo tác động dây chuyền, giá cả giảm lại khuyến khích tiêu dùng và kích thích đầu tư sản xuất hơn nữa. Cứ như vậy, đầu tư phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
3.2. Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho sự tăng giảm của hoạt động đầu tư cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Cụ thể, nếu đầu tư tăng lên, như phân tích ở trên làm cho giá cả tăng lên gây ra tình trạng lạm phát. Lạm phát lại làm chõ đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế châm phát triển. Mặt khác, đầu tư tăng lên làm cho sản xuất phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, tăng thu nhập cho dân cư, giảm tệ nạn xã hội... Đây là yếu tố cơ bản tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không nên tăng đầu tư phát triển vì nếu giảm đầu tư sẽ đưa đến nhiều hậu quả to lớn hơn nữa. Vì vậy, trong hoạt động kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách cần nhận thức đúng đắn về sự tác động hai mặt này để đưa ra những chính sách hợp lý có thể phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
Chúng ta sẽ xem xét sự tác động qua lại giữa vốn đầu tư và thu nhập của nền kinh tế thông qua hai lý thuyết: lý thuyết của Keynes về đầu tư và lý thuyết gia tốc đầu tư.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư dều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do đó làm tăng việc làm và nhu cầu về tư liệu sản xuất sẽ làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt nó làm tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua số nhân đầu tư - đại lượng thể hiện mối quan hệ tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới.
Số nhân đầu tư được xác định:
dY
m =
dI
dY: Mức gia tăng thu nhập
dI: Mức gia tăng đầu tư
m: Số nhân đầu tư
Vì I = S nên
dY dY 1 1
m = = = =
dI dY – dC 1 - dC/dY 1 - MPC
Bên cạnh đó, lý thuyết gia tốc nói về nguyên nhân quyết định đầu tư. Theo thuyết này, ngoài các yếu tố thông thường như lãi suất, thuế...; việc tăng vốn, tăng đầu tư còn xảy ra khi sản lượng tăng. Hơn nữa, sản lượng phải tăng liên tục cùng nhịp độ mới đảm bảo cho vốn đầu tư không đổi. Khi sản lượng ngừng tăng, đầu tư ròng bằng 0 nhưng tổng đầu tư vẫn lớn hơn 0 nhằm duy trì năng lực sản xuất hiện có. Điều này được chứng minh ở công thức:
Kt
x =
Yt
x: Đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng đầu ra
Kt: Vốn đầu tư trong thời gian t
Yt: Sản lượng đầu ra trong thời gian t
Từ công thức trên, ta có: Kt = x.Yt ; Kt+1 = x.Yt+1
Þ NI = Kt+1 – Kt = x.(Yt+1 – Yt) = x.DY
Sự phối hợp nhân tố gia tốc và mô hình số nhân có thể được thể hiện ở mô hình sau:
Sản lượng tăng ở tương lai ® Đầu tư tăng (theo nhân tố gia tốc) ® Sản lượng tăng (mô hình số nhân) ® Đầu tư tăng... và ngược lại
Sự tác động của đầu tư lên tăng trưởng và phát triển kinh tế còn thể hiện ở hệ số ICOR.
Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn đầu tư. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc nhiều vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cú hích ban đầu” để thoát ra khỏi “cái vòng luẩn quẩn” tạo đà cho sự cất cánh.
3.4. Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự tác động này được thể hiện rõ ở chính sách đầu tư ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Đối với cơ cấu ngành, thông thường đầu tư cho ngành công nghiệp, dịch vụ thường chiếm tỷ trọng cao nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở những khu vực này. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi thình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn tạo thành lực kéo và bàn đạp để thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
3.5. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể hiểu đó là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để duy trì và tăng cường, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh hiện có của cơ sở. Như vậy đầu tư có vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn thành lập trước hết phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật như nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua săm các máy móc thiết bị, thuê nhân công... Sau đó để duy trì hoạt động bình thường của mình, các doanh nghiệp phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hay thay mới các cơ sở vật chất đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Có như vậy, doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được. Ngoài ra, đầu tư còn là cách thức cơ bản giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu của mình như tăng lợi nhuận, nâng cao vị thế, uy tín...
Đối với các doanh nghiệp vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) để tồn tại, duy trì sự hoạt động, ngoài việc tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Thực tế đã chỉ rõ, rất nhiều doanh nghiệp do không có phương án đầu tư kinh doanh đúng đắn hoặc không có khả năng huy động vốn đầu tư đều thất bại trong kinh doanh dẫn tới phá sản. Đó là quy luật không thể phủ nhận của nền kinh tế thị trường.
3.6. Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ
Đầu tư tác giúp tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của mỗi nước. Hiện nay, công nghệ đang là trung tâm của công nghiệp hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Như chúng ta đã biết có hai con đường cơ bản để có công nghệ mới. Đó là: tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ của nước khác. Dù là tự nghiên cứu hay nhập công nghệ đều cần phải có vốn đầu tư với khối lượng lớn. Tự nghiên cứu thì cần vốn đầu tư cho việc lắp đặt phòng thí nghiệm, cho công tác nghiên cứu, thử nghiệm... Còn đối với việc nhập công nghệ thì lại càng cần phải có vốn đầu tư. Cần có vốn đầu tư lớn để mua thiết bị, chuyển giao công nghệ... nhất là trong thời kỳ hiện nay, giá công nghệ cùng với giá chất xám ngày càng tăng cao. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
II. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Khái niệm doanh nghiệp
Thực tế trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguyên nhân sự khác nhau này là do các nước dùng các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu thức đó thì có 2 tiêu thức phân loại được sử dụng ở phần lớn các nước. Đó là tiêu thức quy mô vốn và tiêu thức số lượng lao động.
Việc lượng hóa các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp tùy thuộc vào một số yếu tố như:
+ Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
+ Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu về độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.
Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng 1.
Bảng 1: Tiêu thức xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước và vùng lãnh thổ
Nước
Tiêu thức áp dụng
Sè lao động
Tổng vốn hoặc giá trị tài sản
Inđônêxia
Xingapo
Thái Lan
Hàn Quốc
Nhật Bản
EU
Mêhicô
Mỹ
<100
<100
<100
<300 trong CN, XD
<200 trong TM&DV
<100 trong bán buôn
<50 trong bán lẻ
<250
<250
<500
<0.6 tỷ Rupi
<499 triệu USD
<200 Bath
<0.6 triệu USD
<0,25 triệu USD
<10 triệu yên
<100 triệu yên
<27 triệu EURO
<7 triệu USD
<20 triệu USD
Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam – NXB CTQG
Tại Việt Nam tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được thể hiện trong nghị định 90/2001/NĐ ngày 23-11-2001 của Chính Phủ. Theo quy định này doanh nghiệp nhỏ và vừa được định nghĩa như sau: ”Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không qua 30 người”.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã đăng ký kinh doanh và thoả mãn một trong hai điều kiện trên đều được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo cách phân loại này ở Việt Nam có khoảng 93% trong tổng số doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể là 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khu vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước.
2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khi nói tới doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung, chúng ta đều nghĩ đến đặc điểm chung nhất đó là: số lượng lao động ít, trình độ không cao, nhu cầu về vốn đầu tư nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh, chi phí sản xuất cao do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp lớn nên vị thế của các doanh nghiệp