Đề tài Thực trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường hoạt động sôi nổi đầy biến động thì sự cạnh tranh vốn đã gây gắt nay lại càng gay gắt hơn khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng trên toàn cầu. Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi chính phủ, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề có ý nghĩa quang trọng đó là lạm phát. Lạm phát làm ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đến hầu hết mọi người. Nét đặc trưng nổi bật của nền kinh tế có lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Ở Việt Nam, chống lại lạm phát đã được chính phủ đặc biệt quan tâm và đã có những biện pháp kiềm chế lạm phát thành công trong suốt 12 năm (1995 -2007) ở một chữ số. Tuy nhiên lạm phát đã tăng cao trong giai đoạn năm 2008 đến nay ở mức hai chữ số khoảng hơn 12% và được dự đón là tiếp tục tăng trong thời gian tới. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế và xã hội là rất lớn. Vậy lạm phát là gì? Thực trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Và chúng ta phải làm gì để kiềm chế lạm phát? Xuất phát từ những lý do trên nên em quyết định chọn đề tài “thực trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam” để làm chuyên đề kinh tế năm ba của mình, nhằm phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2009 đến sáu tháng đầu năm 2011, để từ đó đề xuất một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.

doc22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5796 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận Đề Tài: thực trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam MỤC LỤC PHẦN GIỚI THIỆU Lý do chỌn đỀ tài MỤc tiêu nghiên cỨu 2.1. Mục tiêu chung 2.2. Mục tiêu cụ thể Phương pháp nghiên cỨu 3.1. Phương pháp thu thập số liệu 3.2. Phương pháp phân tích số liệu 4. PhẠm vi nghiên cỨu 4.1. Phạm vi không gian 4.2. Phạm vi thời gian PHẦN NỘI DUNG Chương 1 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2009 ĐẾN NAY 1.1. NhỮng hiỂu biẾt cơ bẢn vỀ lẠm phát 1.1.1. Khái niệm và phân loại 1.2. ThỰc trẠng lẠm phÁt Ở ViỆT Nam 1.2.1. Tình hình lạm phát từ 1999 – 2009 1.2.2. Tình hình lạm phát từ năm 2009 đến sáu tháng đầu năm 2011 Chương 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009 ĐẾN NAY 2.1. Nguyên nhân lẠm phát Ở ViỆt Nam giai đoẠn 2009 đẾn SÁU THÁNG ĐẦU NĂM 2011 2.1.1. Yếu tố bên trong 2.1.2. Yếu tố bên ngoài 2.2. NhỮng thành tỰu và hẠn chẾ 2.2.1. Thành tựu 2.2.2. Hạn chế 2.3. Nguyên nhân thành tỰu và hẠn chẾ 2.3.1. Nguyên nhân thành tựu Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. KẾt luẬn 3.1. KẾt luẬn Lời phê của giảng viên ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. PHẦN GIỚI THIỆU Lý do chỌn đỀ tài Trong nền kinh tế thị trường hoạt động sôi nổi đầy biến động thì sự cạnh tranh vốn đã gây gắt nay lại càng gay gắt hơn khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng trên toàn cầu. Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi chính phủ, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Một trong những vấn đề có ý nghĩa quang trọng đó là lạm phát. Lạm phát làm ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đến hầu hết mọi người. Nét đặc trưng nổi bật của nền kinh tế có lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Ở Việt Nam, chống lại lạm phát đã được chính phủ đặc biệt quan tâm và đã có những biện pháp kiềm chế lạm phát thành công trong suốt 12 năm (1995 -2007) ở một chữ số. Tuy nhiên lạm phát đã tăng cao trong giai đoạn năm 2008 đến nay ở mức hai chữ số khoảng hơn 12% và được dự đón là tiếp tục tăng trong thời gian tới. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế và xã hội là rất lớn. Vậy lạm phát là gì? Thực trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Và chúng ta phải làm gì để kiềm chế lạm phát? Xuất phát từ những lý do trên nên em quyết định chọn đề tài “thực trạng và giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam” để làm chuyên đề kinh tế năm ba của mình, nhằm phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2009 đến sáu tháng đầu năm 2011, để từ đó đề xuất một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới. MỤc tiêu nghiên cỨu 2.1. Mục tiêu chung Phân tích thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn năm 2009 đến nay nhằm đề xuất một số giải pháp kiềm chế lạm phát Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Thực trạng lạm phát Việt Nam từ năm 2009 đến nay. - Đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 2009 đến nay. - Đề ra giải pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới. Phương pháp nghiên cỨu 3.1. Phương pháp thu thập số liệu Thu thập số liệu thứ cấp từ sách, báo, đài, web có liên quan đến đề tài. 3.2. Phương pháp phân tích số liệu Sử dụng phương pháp luận của chủ nhĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tổng hợp, lý giải, so sánh và phân tích số liệu. PhẠm vi nghiên cỨu 4.1. Phạm vi không gian Đề tài nghiên cứu vấn đề lạm phát ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi thời gian Số liệu trong chủ đề được thu thập từ năm 2009 đến sáu tháng đầu năn 2011. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NĂM 2009 ĐẾN NAY 1.1. NhỮng hiỂu biẾt cơ bẢn vỀ lẠm phát 1.1.1. Khái niệm và phân loại Khái niệm: Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại dấu hiệu giá trị được phát hành và lưu thông nhằm thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Bản thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. Có rất nhiều định nghĩa về lạm phát, nhưng định nghĩa của các nhà kinh tế học hiện đại là được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiêm cứu thị trường: lạm phát là sự tăng lên mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát được đặc trưng bởi tỷ lệ lạm phát hàng năm. Nhưng trong thực tế người ta dùng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để tính tỷ lệ lạm phát. Phân loại: Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát hàng năm ta có thể chia lạm phát thành ba loại: - Lạm phát vừa phải (lạm phát ở một con số): Khi giá tăng chậm dưới 10% một năm, đồng tiền ổn định. - Lạm phát phi mã (lạm phát ở 2,3 con số): Khi giá cả tăng 20%, 30%, 200% một năm, đồng tiền mất giá nhanh chóng. - Siêu lạm phát (lạm phát ≥ 4 con số): Khi tỷ lệ lạm phát lớn hơn 1000% một năm, đồng tiền mất giá nghiên trọng. 1.1.2. Nguyên nhân của lạm phát Lạm phát cầu kéo: Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Xuất phát từ sự gia tăng tổng cầu, đường AD dịch chuyển sang phải làm cho mức sản lượng tăng và mức giá chung tăng lên. Các nguyên nhân làm tăng tổng cầu: dân cư tăng chi tiêu, doanh nghiệp tăng đầu tư, chính phủ tăng mua hàng hóa dịch vụ, người nước ngoài tăng mua hành hóa và dịch vụ trong nước…. Lạm phát do cung (còn gọi là lạm phát chi phí đẩy): Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Khi chi phí sản xuất tăng thì đường cung AS dịch chuyển sang trái, làm cho sản lượng giảm và mức giá chung tăng lên: kinh tế vừa suy thoái vừa lạm phát. Nguyên nhân làm cho chi phí sản xuất tăng: Tiền lương tăng nhưng năng xuất lao động không tăng, điều kiện khai thác các yếu tố sản xuất khan hiếm và tốn kém hơn, thuế tăng, thiên tai chiến tranh, do khủng hoảng một số yếu tố làm cho giá vật tư tăng lên. 1.2. ThỰc trẠng lẠm phÁt Ở ViỆT Nam 1.2.1.Tình hình lạm phát từ 1999–2009 ở Việt Nam Thời kỳ 1999-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp. Thời kỳ từ 2004 đến nay là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ hai năm tăng cao mới có một năm tăng thấp hơn. Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009 tăng 6,52%. 1.2.2. Tình hình lạm phát từ năm 2009 đến sáu tháng đầu năm 2011 CPI của cả năm 2009 dừng ở mức 6,88%, đúng mục tiêu của Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai con số. Tăng giá mạnh nhất là nhóm giao thông: 2,47%. Chỉ số giá USD và vàng biến động mạnh. Giá vàng chỉ tăng thêm 0,49% trong tháng 12 nhưng cả năm 2009 đã tăng đến 9,16%. Chỉ số giá USD tháng 12 tăng 3,19% khiến mức tăng cả năm lên đến 9,17%. Việt Nam đã có nhiều biện pháp để kiêm chế lạm phát trong năm 2009 như: Chính phủ bắt đầu các chính sách “ nới lỏng tiền tệ “ , NHNN liên tục giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ngoài ra chính phủ còn chủ trương giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho 19 nhóm hàng dịch vụ, Chính phủ đưa ra gói kích cầu với tổng trị giá 160 nghìn tỷ đồng. Năm 2010, Việt Nam lạm phát hơn 11,75% gấp rưỡi mức 6,88% của 2009, vượt xa mục tiêu ban đầu (dưới 7%). Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có chỉ số giá tiếp tục tăng và tăng cao nhất với mức 3,31% so với tháng trước. Chỉ số giá vàng tháng 12/2010 tăng 5,43% so với tháng trước; tăng 30% so với cùng kỳ năm 2009. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2010 tăng 2,86% so với tháng trước; tăng 9,68% so với cùng kỳ năm 2009. Việt Nam đã có nhiều biện pháp để kiềm chế lạm phát trong năm 2010 đáng chú ý nhất là Nghị quyết số 18 của Chính phủ ra ngày 06/04/2010 với sáu gói giải pháp nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô, hạn chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng. NHNN Việt Nam chủ động triển khai các biện pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thông qua việc điều hành tốt các công cụ của chính sách tiền tệ bảo đảm kiềm chế không để lạm phát cao và đáp ứng yêu cầu thanh khoản của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước tình hình giá cả, thị trường những ngày sau Tết Nguyên đán Canh Dần vẫn biến động theo chiều hướng tăng, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương triển khai một số biện pháp nhằm hạn chế tối đa những yếu tố phát sinh làm cho lạm phát tăng cao trong năm 2010. Theo chỉ đạo của Thủ tướng, các biện pháp cần tập trung vào những yếu tố tác động do việc lợi dụng sự điều chỉnh giá của Nhà nước để đẩy giá các loại hàng hóa tăng cao, gây tâm lý bất lợi trong xã hội. CPI bình quân 6 tháng tăng 16,03% so với cùng kỳ năm trước, gấp gần 3 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP cùng thời kỳ, ước vào khoảng 5,6%. So với kỳ gốc 2009 đã tăng xấp xỉ 32%, cho thấy sức mua của tiền đồng đã mất đi nhanh chóng thế nào trong vòng 2 năm qua. Nhìn vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, tốc độ tăng đã loại trừ yếu tố giá mấy tháng gần đây đã thấp hơn hẳn so với cùng kỳ các năm trước. Trong khi đó, chi phí đầu vào sản xuất có chu kỳ tăng lên rất cao. Điện, xăng dầu, gas kéo dài sức ảnh hưởng suốt giai đoạn quý 2/2011. Gạo, thịt, cá, rau quả các loại cũng liên tục làm “đảo điên” chỉ số giá lương thực, thực phẩm. Doanh nghiệp thì chịu thêm chí phí vốn, lao động và tỷ giá làm tăng giá thành nguyên liệu nhập khẩu. Nền sản xuất cũng vào vòng quay khó khăn hơn. Tăng trưởng sản lượng toàn bộ nền kinh tế 6 tháng năm 2011 kém hơn cùng kỳ năm trước, nên giá cả lại một lần nữa chịu thêm tác động từ nguồn cung hạn chế. Tuy nhiên, áp lực lên giá kéo dài đến tháng này đã gần cạn. CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống vẫn còn tăng cao nhưng đã thấp hơn rất nhiều so với mấy tháng trước. Nhóm giao thông, nhà ở và vật liệu xây dựng cũng không còn bám sát ở Top sau. Ngày 24/2/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP đề ra 7 nhóm giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Các giải pháp trọng tâm là giảm tổng cầu của nền kinh tế thông qua các chính sách tài khóa, tiền tệ, xuất nhập khẩu; thông qua cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách, giảm dư nợ tín dụng của nền kinh tế, giảm nhập siêu... và quá trình thực hiện đã đạt được những kết quả nhất định.  Chương 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009 ĐẾN NAY 2.1. Nguyên nhân lẠm phát Ở ViỆt Nam giai đoẠn 2009 đẾn SÁU THÁNG ĐẦU NĂM 2011 Lạm phát về thực chất là sự mất giá của đồng tiền so với hàng hóa, dịch vụ, với nguyên nhân tổng quát là mất cân  đối giữa tổng cung và tổng cầu, mà biểu hiện của nó là mất cân đối tiền-hàng: tổng cung cao hơn tổng cầu, tiền nhiều hơn hàng thì lạm phát (còn tổng cung ít hơn tổng cầu, tiền ít hơn hàng thì thiểu phát). Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát bao gồm những yếu tố tác động đến hai vế của quan hệ cân đối này, tức là các yếu tố tác động đến tổng cung, đến hàng và các yếu tố tác động đến tổng cầu, đến tiền. Xét theo các mặt này, thì các nguyên nhân của lạm phát thời gian qua bao gồm các yếu tố sau. 2.1.1. Yếu tố bên trong - Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...). Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong thời kỳ 2001-2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010. Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi của Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3%...). Tiêu dùng của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư cũng góp phần đẩy lạm phát lên cao hơn. Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010). Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD. Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực). Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong khi ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước. Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm 2008 của Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...). - Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm nay đạt trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ  đất đai là những khoản không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm (thu từ dầu thô năm 2005 chiếm 29,2%, 6 tháng đầu năm 2011 chiếm 13,9%; thu từ hải quan, tương ứng chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất đai chiếm khoảng 6-7%). Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm 2007 đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm nay, nhưng vẫn thuộc loại cao. Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội là cần thiết, nhưng thuộc loại cao, nhất là chi cho đầu tư công-thể hiện Nhà nước còn “gánh” nhiều quá, cần khuyến khích các nguồn lực xã hội. - Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP. Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ. - Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát; Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền. Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng lên. Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ... Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND. - Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị  trường là tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn, như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2 - 3 vừa qua. 2.1.2. Yếu tố bên ngoài - Tình hìnhan ninh chính trị, năng lượng và lương thực trên khu vực và thế giới cũng làm ãnh hưỡng một cách dán tiếp hay trực tiếp đến lạm phát ở Việt Nam. - Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau. Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)-tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới-nên biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác. Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng. Khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á 1997-1998, cuộc khủng hoảng năng lượng đẩy giá xăng dầu từ vài chục USD thùng lên 140 USD thùng. 2.2. NhỮng thành tỰu và hẠn chẾ Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát và đạt được một số thành tựu và hạn chế cơ bản như sau: 2.2.1. Thành tựu Nhìn chung Việt Nam đã có những chính sách kiềm chế lạm phát hợp lý, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và có tốc độ phát triển nhanh hơn các nước khác trong khu vực. Bảng 2.1. Một số giữ liệu năm 2009, 2010 Năm 2009 2010 Tổng sản phẩm quốc nội (tỷ USD) 91 101 Xuất khẩu (tỷ USD) 51 71 Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực (so % với năm trước) 5,3 6,7 Nhập khẩu (tỷ USD) 69 84 Tổng mức bán lẽ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (1000 tỷ VND) 1197 1161 Chỉ số CPI (% so với năm trước) 6,5 11,7 Nhìn chung gói kích cầu năm 2009 của chính phủ đã có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng tức thời lòng tin của doanh nghiệp, các ngân hàng avaf các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước. Gói kích cầu đã hộ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn với chi phí rẻ hơn từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh và làm giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp tiếp cận kiệp thời gói kích cầu đã giữ vững và mỡ rộng quy mô sản xuất, góp phần giảm bớt thất nghiệp và kiềm chế lạm phát. Nghị quyết số 18/NQ-CP của chính phủ được triển khai và đạt một số thành tựu. Đánh giá chung, tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn so với năm 2009 và vượt kế hoạch đề ra. Sản xuất công nghiệp phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng cao xấp xỉ trước khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới; xuất khẩu tiếp tục p
Luận văn liên quan