Trong mỗi nền kinh tế, giao thông vận tải đóng vai trò then chốt trong vận chuyển, lưu thông hàng hoá, con người. Kinh tế càng phát triển thì đi liền với đó là nhu cầu về giao thông vận tải ngày càng tăng cao. Ngày nay, các hình thức vận chuyển rất đa dạng và phong phú, có thể bằng đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không và đường bộ. Trong đó, nhu cầu sử dụng đường bộ và đi kèm theo là xe cơ giới đã trở nên phổ biến. Việc sử dụng xe cơ giới để làm phương tiện đi lại của các cá nhân, các tổ chức và các doanh nghiệp cũng ngày càng tăng lên. Xe cơ giới là một trong những loại phương tiện có tính cơ động cao, tính việt giã tốt và tham gia triệt để vào quá trình đi lại và vận chuyển. Việc phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những ưu tiên của Chính phủ các nước
Nguyên lý vận hành của xe cơ giới dựa trên sức mạnh của động cơ với tốc độ nhanh, dẫn đến xac suất rủi ro cao, kéo theo số vụ tai nạn giao thông ngày càng nhiều với mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của cục cảnh sát giao thông, trong số các loại phương tiện giao thông đường bộ thì mức độ gây tai nạn giao thông ở xe cơ giới cao hơn các loại phương tiện khác . Xe cơ giới vẫn là loại phương tiện có giá trị tài sản lớn đối với các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp, do vậy khi gặp tai nạn thiệt hại mà chủ xe phải gánh chịu sẽ rất lớn, ảnh hưởnh đến quá trình đi lại và kinh doanh, gây khó khăn về mặt tài chính cho họ, nên việc bù đắp bằng tài chính kịp thời là một nhu cầu hết sức cần thiết.
105 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2743 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trên thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT
XE CƠ GIỚI
1.1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Trong mỗi nền kinh tế, giao thông vận tải đóng vai trò then chốt trong vận chuyển, lưu thông hàng hoá, con người. Kinh tế càng phát triển thì đi liền với đó là nhu cầu về giao thông vận tải ngày càng tăng cao. Ngày nay, các hình thức vận chuyển rất đa dạng và phong phú, có thể bằng đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không và đường bộ. Trong đó, nhu cầu sử dụng đường bộ và đi kèm theo là xe cơ giới đã trở nên phổ biến. Việc sử dụng xe cơ giới để làm phương tiện đi lại của các cá nhân, các tổ chức và các doanh nghiệp cũng ngày càng tăng lên. Xe cơ giới là một trong những loại phương tiện có tính cơ động cao, tính việt giã tốt và tham gia triệt để vào quá trình đi lại và vận chuyển. Việc phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những ưu tiên của Chính phủ các nước
Nguyên lý vận hành của xe cơ giới dựa trên sức mạnh của động cơ với tốc độ nhanh, dẫn đến xac suất rủi ro cao, kéo theo số vụ tai nạn giao thông ngày càng nhiều với mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của cục cảnh sát giao thông, trong số các loại phương tiện giao thông đường bộ thì mức độ gây tai nạn giao thông ở xe cơ giới cao hơn các loại phương tiện khác . Xe cơ giới vẫn là loại phương tiện có giá trị tài sản lớn đối với các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp, do vậy khi gặp tai nạn thiệt hại mà chủ xe phải gánh chịu sẽ rất lớn, ảnh hưởnh đến quá trình đi lại và kinh doanh, gây khó khăn về mặt tài chính cho họ, nên việc bù đắp bằng tài chính kịp thời là một nhu cầu hết sức cần thiết.
Bảng 1.1: Số xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ Việt Nam
(2004-2008):
Năm
Ô tô
(Chiếc)
So sánh với năm trước
Mô Tô (Chiếc)
So sánh với năm trước
Tổng số (chiếc)
So sánh năm trước
Tăng (Giảm) tuyệt đối (chiếc)
Tăng (Giảm) tương đối (%)
Tăng (Giảm) tuyệt đối (chiếc)
Tăng (Giảm) tương đối (%)
Tăng (Giảm) tuyệt đối (chiếc)
Tăng (Giảm) tương đối (%)
2004
774.824
-
-
13.375.992
-
-
14.150.816
-
-
2005
891.104
116.280
15,0
16.086.644
2.710.652
20,3
16.997.748
2.846.932
20,1
2006
1.026.512
135.408
15,2
18.901.206
2.814.562
17,5
19.927.718
2.929.970
17,2
2007
1.183.260
156.748
15,3
22.350.676
3.449.470
18,2
23.533.936
3.606.218
18,1
2008
1.352.510
169.250
14,3
23.850.127
1.499.451
6,7
25.202.637
1.668.701
7,1
( Nguồn: Báo cáo của ủy ban an toàn giao thông)
Qua bảng trên có thể nhận thấy số lương xe cơ giới tăng khá nhanh qua các năm. Nếu năm 2004 số lượng xe ô tô mới là 774.824 xe thì năm 2008 đã là 1.352.510 xe (gấp 1,75 lần); Số lượng xe máy tăng nhanh hơn: năm 2004 là 13.375.992 xe thì năm 2008 đã là 23.850.127 xe (gấp 1.78 lần).
Trong khi đó, Xe cơ giới tham gia giao thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu. Ơ nước ta hiện nay các tuyến đường bộ chất lượng vẫn chưa được cao, hơn nữa điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp do vậy nguy cơ xẩy ra tai nạn giao thông vẫn còn cao.
Mặt khác xe cơ giới chịu ảnh hưởng rất nhiều vào trình độ cũng như là ý thức chấp hành luật lệ giao thông của lái xe. Xem xét nguyên nhân gây tai ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ trong năm các năm cho thấy, nguyên nhân do lỗi của chủ phương tiện chiếm tới 70%, 30% còn lại là do các nguyên nhân khác. Hầu hết các lái xe chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt ẩu…
Những điều trên thực sự là mối đe doạ lớn về tính mạng và tài sản của các chủ phương tiện tham gia giao thông nói riêng và toàn xã hội nói chung. Để minh hoạ cho điều này chúng ta xem bảng dưới đây:
Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ Việt Nam
( 2004-2008):
Năm
Số vụ
Số người chết
Số người bị thương
Số vụ
So sánh với năm trước
Số người chết
(người)
So sánh với năm trước
Số người bị thương
So sánh với năm trước
Tăng (giảm) tuyệt đối
Tăng (giảm) tương đối (%)
Tăng (giảm) tuyệt đối
Tăng (giảm) tương đối
Tăng (giảm) tuyệt đối
Tăng (giảm) tương đối
2004
29.135
_
_
9.103
_
_
27.102
_
_
2005
29.083
- 52
- 0,18
11.214
2.111
23,19
28.326
1.224
4,52
2006
30.125
1.042
3,58
12.111
891
8,00
28.965
639
2,26
2007
31.273
1.148
3,81
12.834
723
5,97
29.273
308
1,06
2008
32.277
1.004
3,21
13.469
635
4,95
29.491
218
0,74
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông)
Theo bảng số liệu trên, số vụ tai nạn giao thông hầu như không ngừng tăng lên qua các năm, kéo theo đó là những thiệt hại về vật chất và con người. Năm 2008 là 32.277 vụ tăng gấp 1,11 lần so với năm 2004; Số người chết tăng gấp 1,48 lần; Số người bị thương tăng gấp 1,09 lần. Riêng năm 2005 tuy số vụ tai nạn giao thông có giảm so với năm 2004 là 52 vụ nhưng những thiệt hại về con người lại tăng lên đột biến; số người chết tăng 2.111 người và số người bị thương tăng 1.224 người. Điều đó chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn xảy ra trong năm này là rất cao.
Trước tình hình tai nạn giao thông gia tăng cả về số vụ và số người chết, gây tổn thất không nhỏ về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao thông. Tính chung cả nước, hàng năm thiệt hại về tài sản do tai nạn giao thông lên hàng trăm tỷ đồng, nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên tới hàng chục triệu đồng. Đây là con số không nhỏ đối với cá nhân các chủ phương tiện. Khi tai nạn giao thông xảy ra, các chủ xe không chỉ thiệt hại về vật chất, con người mag có thể phải đền bù thiệt hại cho các nạn nhân trong vụ tai nạn. Điều đó đã tạo ra sức ép tài chính lẫn tinh thần đối với các chủ xe và những người điều khiển phương tiện. Vì vậy, để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ phương tiện tham gia giao thông, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ hoạt động tại Việt Nam. Đây là biện pháp tốt nhất để bù đắp thiệt hại sau khi rủi ro xảy ra. Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để hình thành quỹ tài chính bảo hiểm từ đó sẽ bồi thường cho những thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe đó khi chúng không may gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm.
Như vậy, có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết và quan trọng đối với các chủ xe trong quá trình sử dụng và điều khiển xe của mình, góp phần khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài chính khi không may gặp tai nạn, đồng thời nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban đầu để tiếp tục hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Thứ nhất: Góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho người tham gia bảo hiểm
Hoạt động của xe cơ giới tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm, tai nạn rất dễ xảy ra. Trong khi đó xe cơ giới là tài sản có giá trị thường lớn, chính vì vậy nếu xẩy ra tai nạn người chủ sở hữu sẽ chịu thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp, thậm chí gây thiệt hại cả tính mạng và gặp phải rất nhiều khó khăn để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên nếu tham gia bảo hiểm, các chủ xe sẽ nhận được một khoản tiền bồi thường đấy đủ, nhanh chóng từ các nhà bảo hiểm, tình trạng khó khăn ban đầu về tài chính do rủi ro gây lên sẽ nhanh chóng được giải quyết, nhờ đó các chủ xe có thể trang trải được các chi phí bất ngờ phát sinh vượt qúa khả năng tài chính, sớm ổn định đời sống. Từ đó, họ có thể khôi phục sản xuất kinhdoanh và các hoạt động khác một cách bình thường.
Thứ hai: Bảo hiểm xe cơ giới góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng không chỉ dừng lại ở việc bồi thường tổn thất, khắc phục hậu quả tai nạn mà còn được thể hiện rất rõ trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn giao thông. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra. Những nguy nan do cơ sở hạ tàng yếu kém đã được các doanh nghiệp bảo hiểm hỗ trợ, đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy, cùng nghành giao thông làm các biển báo chỉ đường, đường phụ, đường lánh nạn...từ đó đã làm giảm nguy cơ gây tai nạn. Đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm cũng tăng cường thông tin, khuyến khích các chủ xe nâng cao ý thức đề phòng, hạn chế rủi ro và tổn thất. Chẳng hạn, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể phối hợp với các ban nghành chức năng có liên quan để thực hiện tuyên truyền luật an toàn giao thông Tính trung bình, hàng năm, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đóng góp hàng chục tỷ đồng cho công tác đề phòng và hạn chế tai nạn. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng dành cho các chủ xa, lái xe ít để xảy ra tai nạn giao thông, thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất tôt một mức phí ưu đãi
Thứ ba: Góp phần ổn định chi tiêu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước và tạo thêm việc làm cho người lao động
Với quỹ bảo hiểm do những thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân sách Nhà nước sẽ không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn.
Kinh tế, xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tham gia các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ngày càng tăng lên. Đây là cơ hội để tăng doanh thu phí cho các doanh nghiệp bảo hiểm và tăng ngân sách Nhà nước thông qua hình thức đóng thuế. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách để đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Cung với các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm xe cơ giới còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội
Thứ tư: Góp phần huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội
Sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn (cho các cá nhân, doanh nghiệp) mà còn đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng tăng lên của quá trình tái sản xuất mở rộng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Với việc thu phí theo “nguyên tắc ứng trước”, các công ty bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện lời cam kết cảu họ với khách hàng nhưng quỹ này tạm thời nhàn rỗi. Do vậy các công ty bảo hiểm đã trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm
Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng đông cơ của chính chiếc xe đó. Đối tượng bảo hiểm chính là bản thân chiếc xe với đầy đủ các yếu tố như xe cơ giới phải có giá trị cụ thể (có thể lượng hoá bằng tiền); xe có giá trị sử dụng; xe có đầy đủ các điều kiện về tiêu chuẩn kỹ thuật và pháp lý để được lưu hành; và xe cơ giới phải là một chỉnh thể thống nhất với đầy đủ các bộ phận cấu thành
Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới ở đây có thể là ôtô hoặc môtô. Nếu đối tượng là môtô thì chủ xe phải tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe. Nếu đối tượng bảo hiểm là ôtô thì khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc chỉ tham gia bảo hiểm cho từng tổng thành riêng biệt
Về mặt kỹ thuật xe cơ giới, xe ôtô được chia thành 7 tổng thành cơ bản:
- Tổng thành thân vỏ, bao gồm: cabin toàn bộ, calang, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn đạp ga, cần số, phanh chân, phanh tay...;
- Tổng thành hệ thống lái, bao gồm: vôlăng lái, trục tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi de;
- Tổng thành hộp số, bao gồm: hộp số chính, hộp số phụ (nếu có);
- Tổng thành động cơ;
- Tổng thành trục trước (cần trước), bao gồm: dầm cầu trục lắp hệ thống treo nhíp, mayơ nhíp, cơ cấu phanh, nếu là cần chủ động thì có thêm cần visai với vỏ cần;
- Tổng thành trục sau, bao gồm: vỏ cầu toàn bộ, một cầu, visai, cụm mayơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp...;
- Tổng thành bánh xe, bao gồm: lốp, săm (kể cả săm lốp dự phòng);
Ngoài ra, với các xe chuyên dụng như xe cứu hoả, xe cứu thương, xe chở container... thì có thêm tổng thành chuyên dụng.
Trong tất cả các tổng thành trên, tổng thành thân vỏ thường được chủ xe ôtô lựa chọn tham gia bảo hiểm nhiều nhất vì đây là phần dễ tổn thương nhất khi gặp phải rủi ro tai nạn giao thông.
Để đối phó với những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xâỷ ra gây tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới thường tham gia một số loại hình bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với hàng hoá chở trên xe;
- Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe;
- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe;
- Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe;
- Bảo hiểm vật chất xe.
Trong phạm vi chuyên đề này, chỉ tập chung nghiên cứu nghiệm vụ bảo hiểm vật chất xe. Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe và đối với người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là hình thưc bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xẩy ra với xe của mình do những rủi ro bảo hiêm gây nên. Thông thường các chủ xe ôtô có thể tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một trong hai hình thức sau:
- Bảo hiểm toàn bộ xe,
- Bảo hiểm thân vỏ xe.
Trong thực tế, vì nhiều lý do mà các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới đối với xe ôtô mà hạn chế bảo hiểm vật chất cho xe môtô.
1.2.2. Phạm vi bảo hiểm
Thông thường trong một hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm gồm có:
- Tai nạn do đâm va, lật đổ.
- Cháy, nổ, bão lụt,sét đánh, động đất, mưa đá;
- Mất cắp toàn bộ xe;
- Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên;
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xẩy ra cho chiếc xe được bảo hiểm, nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bi thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm;
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. đồng thời công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe bị gây ra bởi:
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật và hư hỏng do sửa chữa gây nên.
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm nốp bị hư hỏng ma không do tai nạn gây ra.
- Mất cắp các bộ phận của xe.
Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dung bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ giao thông, hay một số những rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại tổn thất xẩy ra bởi những nguyên do sau cũng không đươc bồi thường:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo pháp luật về an toàn giao thông đường bộ;
- Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
. Xe không có giấy phép lưu hành;
. Lái xe không có bằng lái, hoặc không có những giấy tờ hợp lệ;
.Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự trong khi điều khiển xe;
.Xe chở chất cháy, chầt nổ trái phép;
.Xe chở quá trọng tải hoăc số hành khách quy định;
.Xe đi vào đường cấm;
.Xe đi đêm không đèn;
.Xe sử dụng tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa.
- Những thiệt hại gián tiếp như : giảm gia trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh;
-Thiệt hại do chiến tranh
Trong trường hợp chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thi công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu chủ xe mới có yêu cầu.
1.2.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm:
* Giá trị bảo hiểm:
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là căn cứ quan trọng để lựa chọn số tiền bảo hiểm và là cơ sở bồi thường thiệt hại thực tế cho người tham gia bảo hiểm. Vì vậy, việc xác định đúng số tiền bảo hiểm là rất quan trọng nhưng để đánh giá được chính xác thì không phải là dễ dàng, cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Trên thực tế các nhà bảo hiểm thường dựa vào năm sản xuất, loại xe, độ cũ mới, thể tích làm việc của xilanh…để xác định giá trị của xe. Tuy nhiên, việc đánh giá các yếu tố này là rất khó khăn, hiệu quả không cao chỉ có những người có chuyên môn mới thực hiện được, có thể dẫn đến tranh cãi, không khách quan. Vì vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm thường xác định giá trị bảo hiểm căn cứ vào khấu hao và giá trị ban đầu (giá trị mua mới) của chiếc xe theo công thức:
GBH = GBĐ - GKH
Trong đó:
GBH: Giá trị bảo hiểm của chiếc xe.
GBĐ: Giá trị ban đầu của chiếc xe, giá trị mua mới.
GKH: Giá trị được khấu hao của chiếc xe (theo năm).
GKH = GBĐ* Tỷ lệ khấu hao*Số năm sử dụng
Để đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm cần phải kiểm tra xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của xe. Hai bên sẽ cùng nhau tiến hành kiểm tra xác nhận tình trạng xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm và cùng nhau thảo luận để xác định giá trị xe, trong nhiều trường hợp cụ thể doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình mà người chủ xe đã sử dụng chiếc xe đó
- Đối với những chiếc xe mới bắt đầu đưa vào sử dụng, việc xác định giá trị ban đầu của xe đơn giản hơn. Có thể căn cứ vào các giấy tờ, hoá đơn mua bán xe, hoá đơn thu thuế trước bạ để xác định giá trị xe
Với xe có thời gian sử dụng dưới 1 năm thì GKH =0, nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe.
- Đối với loại xe đã qua sử dụng thì việc đánh giá giá trị xe mới đòi hỏi nhiều công đoạn phức tạp để đánh giá về giá trị ban đầu, và tình trạng khấu hao cũng như tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe.
Với xe có thời gian sử dụng trên 1 năm (GKH>0) nên giá trị bảo hiểm luôn nhỏ hơn giá trị ban đầu của xe.
Trên cơ sở đó, công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo luận và đi đến kết luận về giá trị bảo hiểm. Sau đó chủ xe có thể quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hay bằng giá trị thực tế của xe. Trên thực tế, việc xác định giá btrị bảo hiểm này chỉ mang tính chất tưông đối và hợp lý, không thể có kết quả tuyệt đối chính xác. Một số doanh nghiệp bảo hiểm thường xây dựng bảng giá xe theo nguồn gốc sản xuất, loại xe, mác xe, năm sản xuất, dung tích xilanh...
* Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm hay giới hạn bồi thường tối đa của nhà bảo hiểm. Nói cách khác, trong bất kì trường hợp nào, số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm.
Cơ sơ để xác định số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới là giá trị bảo hiểm và được chia thành ba trường hợp sau:
-Bảo hiểm dưới giá trị: theo hình thứ