Để một nền kinh tế phát triển bền vững thì nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định. Vì vậy, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cùng với xu hướng trên, Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục đóng vai trò quan trọng là vậy, tuy nhiên thời gian gần đây, dư luận đang “nóng” lên vì những thông tin học sinh bỏ học. Tình trạng học sinh bỏ học hàng loạt đang gia tăng ở các địa phương, khiến những ai có tâm huyết với giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn trở. Vấn đề này nếu không được quan tâm đúng mức sẽ đưa đến những hậu quả xấu cho bản thân học sinh bỏ học, gia đình của các em và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội.
Có thể thấy rằng, việc khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh hiện nay là vấn đề hết sức bức thiết và đòi hỏi sự quan tâm của nhiều thành phần. Trong điều kiện giới hạn, nhóm chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp vấn đề bỏ học của học sinh THCS” (Điển cứu tại quận Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh), nhằm góp phần tìm hiểu thực trạng và nêu lên những suy nghĩ về biện pháp khắc phục vấn đề này.
31 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp vấn đề bỏ học của học sinh THCS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
VẤN ĐỀ BỎ HỌC CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
(Điển cứu tại Quận Thủ Đức – TP.Hồ Chí Minh)
GVHD: CN.NGUYỄN THỊ THU HIỀN
NHÓM THỰC HIỆN:
Trần Hữu Linh – MSSV :0742101
Phạm Thị Thu – MSSV :0742086
Tô Thị Hà – MSSV :0742004
TP.Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 05 năm 2008
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài:
Để một nền kinh tế phát triển bền vững thì nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định. Vì vậy, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cùng với xu hướng trên, Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục đóng vai trò quan trọng là vậy, tuy nhiên thời gian gần đây, dư luận đang “nóng” lên vì những thông tin học sinh bỏ học. Tình trạng học sinh bỏ học hàng loạt đang gia tăng ở các địa phương, khiến những ai có tâm huyết với giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn trở. Vấn đề này nếu không được quan tâm đúng mức sẽ đưa đến những hậu quả xấu cho bản thân học sinh bỏ học, gia đình của các em và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội.
Có thể thấy rằng, việc khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh hiện nay là vấn đề hết sức bức thiết và đòi hỏi sự quan tâm của nhiều thành phần. Trong điều kiện giới hạn, nhóm chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp vấn đề bỏ học của học sinh THCS” (Điển cứu tại quận Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh), nhằm góp phần tìm hiểu thực trạng và nêu lên những suy nghĩ về biện pháp khắc phục vấn đề này.
Sơ lựợc về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Thực trạng bỏ học của học sinh nói chung và học sinh trung học cơ sở nói riêng, thực chất đã diễn ra trong một thời gian khá dài nhưng hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này chỉ được nhắc đến và đưa ra bàn luận trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài trọng tâm đào tạo con người với đầy đủ năng lực và phẩm chất, thì vấn đề bỏ học của học sinh trung học cũng ngày càng được Đảng, Nhà nước và các tổ chức ban ngành quan tâm. Tuy nhiên, có thể thấy các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa nhiều và chưa thật sự phản ánh một cách chân thật nhất, khái quát nhất thực trạng vấn đề. Có chăng chỉ là những trang tin đăng tải trên các tờ báo (báo Tuổi trẻ, báo Thanh niên, báo Sài Gòn giải phóng….), trên internet hoặc một số tin ngắn, phóng sự trên các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh các sự kiện liên quan hay một số bài trích ngắn của các tác giả quan tâm đến vấn đề này.
Tập trung giải quyết các “điểm nóng” tại buổi họp báo định kỳ tháng 3 năm 2008 của Bộ GD-ĐT tổ chức ở Hà Nội ngày 12/3/2008, do Phó thủ tướng -Bộ trưởng bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân chủ trì, Bộ GD-ĐT đã dành phần lớn thời gian để nói về vấn đề bỏ học và giải pháp để khắc phục.
Ngày 14 tháng 3 năm 2008, Bộ GD-ĐT có công văn số 2092/BGD&ĐT-VP gửi đến lãnh đạo các Tỉnh, Thành phố trên cả nước giải trình về tình trạng học sinh bỏ học trong học kỳ I năm học 2007-2008.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển, Trần Xuân Nhĩ và một số cá nhân quan tâm (Thạc sĩ Nguyễn Kim Nương - Đại học An Giang, ông Lê Văn Lâm – Đường Nguyễn Văn Cừ - quận 1) cũng đã có những ý kiến đóng góp trong việc chỉ ra nguyên nhân và kiến nghị một số biện pháp nhằm ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh trung học.
Liên quan đến vấn đề bỏ học và lưu ban của học sinh, đã có một số nghiên cứu nhỏ được tiến hành như :
1.Đề tài: “Khảo sát tình hình lưu ban, bỏ học của học sinh 2 trường vùng ven Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đặng Văn Minh, Viện Nghiên cứu giáo dục, năm 1992. Nghiên cứu được tiến hành tại hai trường: Trường THCS Đặng Trần Côn và Trường Cấp II, III Võ Văn Tần (năm học1990 – 1991). Tác giả đã đánh giá thực trạng và chỉ ra những nguyên nhân bỏ học của học sinh tại hai trường này. Đề tài đã đưa ra những nguyên nhân chủ quan, cũng như khách quan khiến học sinh bỏ học, những nguyên nhân từ phía bản thân học sinh, gia đình, nhà trường và xã hội. Từ việc phân tích nguyên nhân, tác giả đã đề xuất những giải pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng bỏ học, nó thật sự có ý nghĩa đối với ngành giáo dục tại thời điểm đó.
2. Bài trích “Hiện tượng lưu ban, bỏ học :Thực trạng, nguyên nhân, vấn đề và biện pháp / Thái Duy Tuyên // Nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr.4-6”. Tác giả đã phản ánh thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng lưu ban, bỏ học và đưa ra những biện pháp cần thiết để ngăn chặn và khắc phục tình trạng trên. Qua đề tài, có thể thấy được tình trạng bỏ học, lưu ban của học sinh ở từng vùng, từng miền là khác nhau: về nguyên nhân, tỷ lệ, hệ quả... từ đó tác giả đưa ra những biện pháp ngăn chặn, khắc phục phù hợp với từng nơi.
3.Bài trích “Về nguyên nhân và biện pháp chống bỏ học / Phạm Thanh Bình // Nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr.31- 32”. Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản nhất khiến học sinh phải bỏ học: nó có thể xuất phát từ phía nhà trường, học sinh, gia đình và toàn xã hội. Bên cạnh việc nêu ra những nguyên nhân, tác giả đã nêu lên được những biện pháp để ngăn chặn và giải quyết vấn đề đang được quan tâm lúc bấy giờ.
4. Bài trích “Vấn đề lưu ban, bỏ học ở Thành phố Hồ Chí Minh / Hồ Thiệu Hùng // Nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr11-12”. Tác giả đã nêu lên được những đặc điểm chủ yếu về điều kiện kinh tế - xã hội - giáo dục ở TP.Hồ Chí Minh và thực trạng lưu ban, bỏ học của học sinh tại thời điểm nghiên cứu. Qua bài trích, tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân khiến cho học sinh bị lưu ban, bỏ học tại một thành phố lớn và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế hiện tượng này.
5. Báo cáo của Ông Mai Phú Thanh – Chuyên viên Sở GD-ĐT về “Thực trạng học sinh lưu ban, bỏ học tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu năm học 2007 – 2008” (Báo cáo tại hội thảo “Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay”, được tổ chức tại Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng ngày 25/04/2008”. Trong báo cáo của mình, ông Mai Phú Thanh đã trình bày sơ bộ về tình hình học sinh theo học ở các cấp, kết quả xếp loại học lực hàng năm và đặc biệt là đưa ra những con số thống kê về nguyên nhân bỏ học của học sinh hiện nay. Điểm đáng lưu ý của báo cáo là ông đã đưa ra những giải pháp mang tính chiến lược, nêu bật vai trò của các cấp ban ngành cũng như của các đơn vị, tổ chức… có trách nhiệm trong việc hạn chế và ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ học hiện nay.
Trong điều kiện giới hạn về thời gian và phương tiện tra cứu, nhóm chúng tôi chỉ có thể sơ lược được một số nghiên cứu nêu trên. Nguồn tư liệu nhóm thu thập được chủ yếu từ một số bài trích của các đề tài nghiên cứu cách đây khá lâu (năm 1992), còn lại một số thông tin liên quan đến vấn đề bỏ học của học sinh THCS hiện nay được lấy từ các bài báo, dữ liệu trên internet và tài liệu tham dự hội thảo “Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay” (ngày 25/04/2008). Qua đó, cũng có thể nhận định rằng, tình hình nghiên cứu vấn đề bỏ học của học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng còn rất hạn chế.
Mục tiêu của đề tài
Hiện nay, tình trạng bỏ học của các em học sinh đang ngày càng gia tăng và trở thành điểm “nóng” được cả xã hội quan tâm. Có khá nhiều hội thảo, cuộc họp báo được tổ chức nhằm tìm ra nguyên nhân, giải pháp của thực trạng trên. Dưới góc độ một cuộc nghiên cứu nhỏ của Sinh viên ngành Công tác xã hội, nhóm chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Thực trạng và giải pháp vấn đề bỏ học của học sinh THCS” nhằm tìm hiểu thực trạng của vấn đề bỏ học, từ đó đưa ra những suy nghĩ mang tính giải pháp để hạn chế và ngăn chặn vấn đề này.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu như đã nêu trên, nhóm chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm trả lời cho những câu hỏi cụ thể sau:
+ Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh trung học cơ sở hiện nay?
+ Thực trạng bỏ học của học sinh trung học cơ sở hiện nay như thế nào?
+ Với hiện trạng bỏ học như hiện nay thì sẽ mang lại hậu quả gì cho chính bản thân học sinh, cho gia đình và cho toàn xã hội?
+ Những biện pháp nào có thể ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ học?
Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vấn đề bỏ học của học sinh trung học cơ sở hiện nay.
Khách thể nghiên cứu: Học sinh trung học cơ sở (điển cứu tại quận Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh).
Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu tại 3 trường THCS ở quận Thủ Đức, đó là: Trường THCS Linh Trung, Trường THCS Trương Văn Ngư và Trường THCS Tân Phú.
Ý nghĩa thực tiễn
Chúng tôi - những sinh viên ngành CTXH trong tương lai sẽ trở thành những nhà cán sự xã hội. Thông qua việc thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc cải thiện tình trạng bỏ học đang trở thành điểm nóng như hiện nay. Giúp cho mọi người hiểu được nguyên nhân, hiện trạng và thấy được hậu quả to lớn của nó đối với chính bản thân học sinh, gia đình và toàn thể xã hội trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Ngoài ra, chúng tôi mong rằng sẽ tích lũy được kinh nghiệm để có thể thực hiện tốt vai trò của một nhân viên CTXH, tự trang bị cho mình những kiến thức trong việc truyền thông về vai trò quan trọng của giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để cùng chung tay thực hiện 3 mục tiêu lớn của ngành giáo dục đó là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, phấn đấu để Việt Nam hoàn thành mục tiêu phổ cập THCS trong năm 2010 và xa hơn nữa là phổ cập trung học phổ thông.
Ý nghĩa khoa học
Tuy chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng đề tài của chúng tôi thực sự có ý nghĩa khoa học. Đề tài được tổng hợp và phân tích từ những nguồn tư liệu đáng tin cậy (thống kê của Sở GD-ĐT Thành phố Hồ Chí Minh về tình trạng bỏ học của học sinh đầu năm học 2007 – 2008…) sẽ là cơ sở khoa học để các nghiên cứu tiếp theo có thể tham khảo. Ngoài ra, với kết quả nghiên cứu bước đầu, sẽ tạo điều kiện để thực hiện nghiên cứu vấn đề này ở cấp cao hơn.
Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp phân tích tư liệu sẵn có dựa vào các nguồn tư liệu nhóm thu thập được, chủ yếu từ một số bài trích của các đề tài nghiên cứu trước đây. Một số thông tin được lấy từ các bài báo, dữ liệu trên internet và tài liệu tham dự hội thảo “Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay” (ngày 25/04/2008).
Phương pháp định tính: sử dụng công cụ phỏng vấn sâu, được thực hiện tại một số Trường trung học cơ sở ở khu vực Thủ Đức, cụ thể:
+ Cô Nguyễn Thị Quý - Hiệu trưởng Trường THCS Linh Trung.
+ Thầy Trịnh Đình Vũ Huy - Hiệu trưởng Trường THCS Trương Văn Ngư.
+ Cô Lê Thị Ngọc Sương - Giáo viên Trường THCS Trương Văn Ngư.
+ Thầy Nguyễn Văn Quí - Hiệu trưởng Trường THCS Tân Phú.
Phương pháp xử lý thông tin
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phân tích các thông tin định lượng dựa vào các nguồn tư liệu sẵn có, chủ yếu là các bảng thống kê về nguyên nhân và tình hình bỏ học của học sinh.
Đối với các thông tin định tính được thu thập trong quá trình phân tích tư liệu sẵn có và thực hiện nghiên cứu thực địa thông qua phỏng vấn sâu, được chúng tôi ghi chép, phân ra theo những nhóm chủ đề đã được xác định từ trước và sử dụng trong suốt quá trình viết báo cáo.
NỘI DUNG
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Tình trạng bỏ học của học sinh THCS trên cả nước
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, để hội nhập vào nền kinh tế chung của thế giới thì vấn đề “đào tạo con người” là một trong những yếu tố then chốt, luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được của ngành giáo dục thì vẫn còn đó không ít vấn đề nan giải đang tìm hướng giải quyết. Một trong số đó là vấn đề bỏ học của học sinh hiện nay.
Theo số liệu thống kê đến hết học kỳ I năm học 2007 – 2008, cả nước có 114.000 học sinh bỏ học ở cấp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT). Trong những năm gần đây, được sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của Đảng, Nhà nước và các cấp ban ngành, tỉ lệ học sinh bỏ học có giảm về tỷ lệ nhưng về số lượng thì vẫn tăng và thật sự đáng “báo động”. Tính đến tháng 12 năm 2007, số lượng học sinh THCS bỏ học là 63.729 học sinh (chiếm tỷ lệ 1,1% so với số lượng học sinh cùng cấp ) và ở học sinh THPT là 50.309 học sinh (chiếm 1,66 %). Các tỉnh có số lượng học sinh bỏ học nhiều là: An Giang với 17.000 học sinh, Trà Vinh gần 7000 học sinh; trong đó số học sinh bỏ học ở cấp THCS là 8800 em ở An Giang, 5500 em ở Trà Vinh và tại Kiên Giang là 5000 em. Như vậy, có thể thấy rằng, phần đông số lượng học sinh bỏ học tập trung ở cấp THCS và đó thật sự là những con số khiến chúng ta phải giật mình.
Tình trạng bỏ học của học sinh đã đến mức báo động, nó không chỉ tồn tại ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn mà còn diễn ra ở các tỉnh thành có nền kinh tế phát triển. Từ những năm học trước, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều giải pháp để ngăn chặn tình trạng bỏ học của học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng nhưng hiệu quả chưa cao.
Ngày 13 tháng 3 năm 2008, “tâm điểm” cuộc giao ban tháng 3 của Bộ giáo dục và Đào tạo, dưới sự chủ trì của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã nêu ra: “tâm điểm của giáo dục và đào tạo hiện nay không phải là tuyển sinh, thi tốt nghiệp hay học phí… mà là tình trạng bỏ học của học sinh từ cấp tiểu học lên cấp trung học phổ thông trên toàn quốc”. Mặc dù nhìn vào bảng thống kê số học sinh bỏ học qua từng năm có giảm về tỷ lệ nhưng số lượng bỏ học vẫn ở mức cao, đó là chưa kể trên thực tế số lượng học sinh bỏ học còn cao hơn nhiều so với những số liệu được thống kê. Điều này đã được chứng minh trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Tại hội thảo về chủ đề “Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay” chúng tôi đã được nghe ông Mai Phú Thanh – Chuyên viên Sở GD-ĐT Thành phố Hồ Chí Minh trình bày về thực trạng bỏ học của học sinh tại Thành phố. Số liệu ông Thanh đưa ra được lấy từ báo cáo tổng kết của Sở GD-ĐT Thành phố đầu năm học 2007 – 2008, trong bảng thống kê số lượng học sinh THCS bỏ học ở địa bàn quận Thủ Đức là 0 học sinh, trong khi đó tại 4 trường THCS (thuộc quận Thủ Đức) chúng tôi khảo sát thì số lượng bỏ học trung bình của mỗi trường từ 3 – 6 học sinh (trong đó có cả trường đạt chuẩn Quốc gia). Qua đó, một lần nữa có thể khẳng định những con số thống kê trong các báo cáo về tình trạng bỏ học mặc dù đã rất cao nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với thực tế. Vậy sẽ có những giải pháp gì nhằm hạn chế và ngăn chặn tình trạng trên, để không đưa đến những hậu quả đáng tiếc sau này cho bản thân các em, gia đình và xã hội.
Nhóm chúng tôi thực hiện đề tài này với mong muốn đưa ra được cái nhìn khái quát về tình trạng bỏ học của học sinh trong cả nước cũng như tại Thành phố Hồ Chí Minh mà cụ thể là tại quận Thủ Đức.
Tình trạng bỏ học của học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của Thành phố, Giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực có kiến thức, có tay nghề và trình độ kĩ thuật cao. Trọng trách đó không đơn thuần chỉ từ phía giáo dục Đại học – Cao đẳng, mà nó là của cả ngành Giáo dục, trong đó không kém phần quan trọng là Giáo dục Trung học cơ sở.
Hiện nay, toàn Thành phố có 234 trường THCS và 124 trường THPT được rải đều khắp 24 quận huyện, với 327.652 học sinh THCS và 176.662 học sinh THPT. Mặc dù Tp.Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế phát triển, trình độ phổ cập luôn đạt ở mức cao nhưng trên thực tế vẫn có tình trạng học sinh yếu kém và học sinh bỏ học. Chất lượng đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh những năm gần đây cho thấy: số lượng học sinh khá giỏi hàng năm ổn định từ 46 – 47%, yếu từ 9,4 – 10,3% và kém 0,25 – 0,75%. Số học sinh lưu ban và bỏ học hàng năm khoảng 1,5 – 2,0%. Việc giúp đỡ học sinh yếu kém, hạn chế số học sinh bỏ học từ lâu đã là một chỉ tiêu quan trọng của việc thực hiện nhiệm vụ năm học, nhất là khi hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 2002 và tiến hành phổ cập bậc trung học theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII.
Thực tế, tình hình học sinh bỏ học tại Tp. Hồ Chí Minh tuy vẫn thấp hơn so với các khu vực khác trong cả nước nhưng nó cũng là một con số khiến cho Sở GD-ĐT Thành phố quan tâm và luôn tìm cách hạn chế đến mức thấp nhất.
Qua số liệu khảo sát năm 2007 – 2008, số liệu học sinh bỏ học của Thành phố như sau: Học sinh THCS là 694 em trên tổng số 327.652 học sinh đầu năm học( chiếm 0.21%), học sinh THPT là 1.451 trên tổng số 176.662 học sinh THPT đầu năm học (chiếm 0.82%). Nhìn chung, học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân khác nhau như học sinh bị kỷ luật buộc thôi học, do hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn, do học lực quá yếu….
Học sinh bỏ học tập trung ở các quận huyện ngoại thành có kinh tế phát triển chậm, đặc biệt là các nơi có tỉ lệ nhập cư cao. Địa phương có biến động dân cư càng lớn thì tỉ lệ học sinh bỏ học càng cao, các địa phương chưa hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học có tỉ lệ học sinh bỏ học cao hơn các địa phương đã hoàn thành phổ cập. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình học sinh bỏ học được xem là một trở ngại lớn đối với việc nâng cao chất lượng công tác phổ cập giáo dục bậc THCS đúng độ tuổi và ảnh hưởng sâu sắc đến việc hoàn thành tiến độ phổ cập giáo dục bậc trung học theo Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII. Chính vì thế Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố đã tập trung công tác chỉ đạo phổ cập giáo dục bậc trung học, tổ chức các cuộc vận động nhằm hạn chế tình trạng bỏ học với các chỉ tiêu toàn diện, cụ thể như sau: Củng cố, duy trì, phát huy kết quả phổ cập giáo dục THCS , phấn đấu đạt chuẩn phổ cập bậc trung học, tăng tỉ lệ huy động và hiệu quả đào tạo, giảm tỉ lệ lưu ban, bỏ học ở cấp THCS và THPT. Huy động ít nhất 70% số học sinh bỏ học năm học trước ở THCS cũng như THPT tái nhập học.
Nguyên nhân bỏ học của học sinh THCS hiện nay
Nâng cao chất lượng giáo dục là một nhu cầu cấp thiết của thời đại và là chỉ tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, trước thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay đòi hỏi các cấp ban ngành và tổ chức có liên quan phải tìm mọi cách để ngăn chặn và khắc phục. Tuy nhiên, trước hết phải tìm hiểu và xác định được nguyên nhân của tình trạng này là do đâu. Qua quá trình nghiên cứu và thu thập thông tin, nhóm chúng tôi nhận thấy có một số nguyên nhân chính đưa đến tình trạng bỏ học của học sinh THCS như sau:
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ không đủ điều kiện cho con đến trường buộc các em phải bỏ học. Một phần vì bố mẹ phải lo kiếm kế sinh nhai, không có thời gian quan tâm chăm sóc, nhắc nhở các em học hành dẫn đến tình trạng lười học, không muốn đến lớp. Có trường hợp gia đình khó khăn, các em phải bỏ học để ở nhà phụ việc hoặc lao động sớm để phụ bố mẹ trang trải. Tuy nhiên, đây không hẳn là nguyên nhân tuyệt đối vì có những gia đình khó khăn nhưng con em vẫn đến trường và còn học rất giỏi, nó còn phụ thuộc vào thái độ của bố mẹ và cá tính của các em. Điều này giải thích tại sao có những gia đình có điều kiện cho con đi học thậm chí là giàu có nhưng con em của họ vẫn không chịu đến lớp mà chỉ thích đi chơi. Nguyên nhân này cũng đã được cô Lê Thị Ngọc Sương giáo viên trường THCS Trương Văn Ngư nhận định: “Nhiều gia đình khá giả quan tâm đến việc học của con cái nhưng học sinh vẫn nghỉ học, như vậy vấn đề gia đình gặp khó khăn buộc con cái phải nghỉ học theo tôi là không hẳn”.
Thứ hai, do gia đình chuyển nơi ở, đi làm ăn xa n