Phân bổ hợp lý các nguồn lực. Quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và các nguồn đầu tư xã hội để thực hiện các dự án phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ðể khắc phục tình trạng gia công lắp ráp kéo dài, thành phố tập trung vốn đầu tư một số trung tâm thiết kế sản phẩm. Vài năm tới, thành phố xây dựng từ năm đến sáu trung tâm thiết kế sản phẩm cho các ngành kinh tế có khả năng mang lại lợi nhuận cao, trước mắt đầu tư 30 tỷ đồng xây dựng trung tâm thiết kế cho ngành cơ khí, sau đó xây dựng trung tâm thiết kế cho ngành nhựa, cao-su, gỗ, dệt - may. Thành phố cũng giao Sở Bưu chính - Viễn thông xây dựng trung tâm thiết kế vi mạch với mức đầu tư trước mắt 500 nghìn USD.
Sử dụng công cụ tài chính để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Có cơ chế tài chính để ưu đãi các lĩnh vực cần tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nguồn vốn ưu tiên tập trung phát triển bốn ngành công nghiệp: Cơ khí, điện tử tin học, hóa chất và công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao. Phát triển nhanh các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, công nghiệp phụ trợ.
25 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2167 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét của giáo viên:
Điểm:
MỤC LỤC
Chương I Sơ lược về cơ cấu kinh tế ……………………………. 3
A. Cơ cấu các ngành kinh tế …………………………..... 5 B. Cơ cấu thành phần kinh tế …………………………… 8
Chương II Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn
TP Hồ Chí Minh
A. Vài nét về cơ cấu các ngành kinh tế đô thị…………... 9
B. Vài nét về cơ cấu thành phần kinh tế đô thị………….. 14
Chương III Thực trạng xây dựng cơ cấu kinh tế ở TP Hồ
Chí Minh
A. Các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế………………………… 15
B. Trạng xây dựng cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh
1. Cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh có sự chuyển 16
dịch tích cực…………………………………………..
Tổng quan kinh tế TP Hồ Chí Minh sáu tháng đầu
năm 2007……………………………………………... 18
Thực trạng và những vấn đề tồn tại trong
cơ cấu kinh tế ………………………………………… 20
Chương IV Giải pháp xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên
địa bàn TP Hồ Chí Minh …………………………….. 23
CHƯƠNG I SƠ LƯỢC VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
(Khái niệm:
Cơ cấu kinh tế là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế… và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi (còn gọi là chuyển dịch) do sự vận động biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nếu muốn xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thì phải định hướng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy cho nên xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.
A. Cơ cấu các ngành kinh tế:
1. Định nghĩa:
Là tỷ lệ về lượng giữa các ngành kinh tế và hình thức kết hợp qua lại xác định giữa chúng.
2. Phân loại:
Như đã biết, cơ cấu kinh tế quốc dân được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như: ngành, sở hữu, vùng, xuất- nhập khẩu…Và cơ cấu các ngành kinh tế thì chủ yếu được phân loại theo ba phương pháp sau:
a. Phân theo khu vực kinh tế: có ba khu vực cơ bản
- Khu vực một là nông nghiệp, bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, ngư nghiệp, lâm nghiệp.
- Khu vực hai là công nghiệp, chủ yếu có các ngành khai khoáng, chế tạo, xây dựng…
- Khu vực ba là dịch vụ, bao gồm các ngành thương mại, dịch vụ, tiền tệ, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế, hành chính nhà nước, quốc phòng…
b. Phân theo loại hình thâm canh các yếu tố sản xuất trong các ngành kinh tế
Tùy theo tỷ trọng của sức lao động, vốn và chất xám trong các ngành kinh tế, có thể qui chúng thành ba loại hình cơ bản:
- Loại hình thâm canh sức lao động, chủ yếu dựa vào sức lao động, ví dụ: dệt may...
- Loại hình thâm canh vốn, chủ yếu dựa vào số lượng vốn, ví dụ: sản xuất gang thép…
- Loại hình thâm canh chất xám, chủ yếu dựa vào chất xám, ví dụ: vi điện tử, hàng không vũ trụ, vật liệu mới, năng lượng mới…
c. Phân thành các ngành kinh tế xuất khẩu và các ngành kinh tế nội địa
- Các ngành kinh tế xuất khẩu thỏa mãn nhu cầu thị trường bên ngoài.
- Các ngành kinh tế nội địa thỏa mãn nhu cầu mang tính nội địa, bao gồm nhu cầu trong hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế xuất khẩu và nhu cầu sinh hoạt thường nhật của người dân.
3. Mối quan hệ giữa cơ cấu các ngành kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế biểu thị thành một loại tăng trưởng tổng mức kinh tế, tổng mức kinh tế có thể là giá trị tổng sản phẩm quốc dân, tổng thu nhập quốc dân hay giá trị bình quân của các tổng mức đó. Con đường tăng trưởng kinh tế có hai mặt cơ bản: một mặt dựa vào sự gia tăng tổng vốn đầu tư, một mặt dựa vào sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, nói chung đều được thực hiện thông qua con đường gia tăng tổng vốn đầu tư. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là xây dựng bước đầu hệ thống công nghiệp, làm cho giá trị tổng sản lượng công nghiệp và tỷ trọng của nó trong thu nhập quốc dân vượt xa nông nghiệp. Sau khi kinh tế đã phát triển đến trình độ nhất định thì mâu thuẫn về cơ cấu kinh tế trở thành mâu thuẫn chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế và lúc này chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ trở thành con đường chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ:
- Kinh tế sau khi đã phát triển tới trình độ nhất định, thu nhập GDP bình quân đầu người tăng lên tới mức nhất định, cơ cấu nhu cầu đã phát sinh những thay đổi to lớn cho nên đòi hỏi phải tiến hành chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế.
- Tài nguyên thiên nhiên là có hạn, giá thành sức lao động cũng không ngừng nâng cao, sự biến đổi to lớn của môi trường cung cấp các yếu tố sản xuất này đòi hỏi sự thay đổi tương ứng của cơ cấu các ngành kinh tế.
B. Cơ cấu thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau trong môi trường hợp tác và cạnh tranh, tạo thành cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế phản ánh sự tồn tại của các hình thức sở hữu. Hiện nay ở nước ta có 5 thành phần kinh tế sau:
1. Thành phần kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước…
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế: phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế.
2. Thành phần kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế; không giới hạn qya mô và địa bàn; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên.
3. Thành phần kinh tế tư nhân
Bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động, vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Trong những năm qua, thành phần kinh tế náy phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội. Tuy nhiên, kinh tế cá thể, tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật.
- Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Mặc dù vậy nhưng đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao, đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả…là những hiện tượng thường xuất hiện ở thành phần kinh tế này.
4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gờm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài, có thể liên kết liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân.
CHƯƠNG II XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ HỢP LÝ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
( Nội dung của cơ cấu kinh tế hợp lý
Không chỉ riêng TP Hồ Chí Minh mà có lẽ bất kỳ một đô thị nào cũng vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đều muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng kinh tế thì điều tối quan trọng là phải có cơ cấu kinh tế hợp lý. Vả lại đất nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vậy nên vấn đề xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan cần phải thực hiện.
Một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo kinh tế toàn cầu hóa kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi công - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ. Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
(Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn TP Hồ Chí Minh
A. Vài nét về cơ cấu các ngành kinh tế đô thị
1. Cơ cấu các ngành kinh tế đô thị là cơ cấu kinh tế thuộc loại hình phát triển theo chiều sâu và có hiệu quả cao.
Trước hết, phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao của cơ cấu các ngành kinh tế đô thị bắt nguồn từ tính tụ hội của kinh tế đô thị. Đô thị nói chung là trung tâm trao đổi hàng hóa, trung tâm chế tạo sản phẩm và trung tâm giao thông, là khu vực tụ hội các yếu tố sản xuất, hình thành một hệ thống vận hành kinh tế khổng lồ. Hệ thống này tập trung trong một không gian hữu hạn, nó đòi hỏi quá trình sản xuất các loại sản phẩm và dịch vụ phải phát triển theo chiều sâu, thực hiện sản xuất bằng con đường thâm canh sức lao động, vốn và công nghệ, đó là nguyên nhân căn bản của việc phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao.
Sau nữa, đô thị với tư cách là trung tâm kinh tế của khu vực và của cả nước, nó cần dựa vào con đường phát triển theo chiều sâu để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực xung quanh. Chỉ như vậy, đô thị mới trở thành khu vực có trình độ công nghệ tiên tiến nhất của một khu vực hay của cả quốc gia. Sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đều được thực hiện bằng cách khuyếch tán công nghệ của đô thị, đô thị với tư cách là cứ địa của sự khuyếch tán này làm cho cơ cấu các ngành kinh tế của nó phải là cơ cấu phát triển theo chiều sâu, đầu tư nhiều tri thức kỹ thuật mà trở thành cơ cấu thuộc loại hình có hiệu quả cao.
Phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao có liên quan với nhau, nói chung cơ cấu thuộc loại hình phát triển theo chiều sâu là cơ cấu có hiệu quả cao. Vì rằng phát triển theo chiều sâu đòi hỏi sự phát triển tương đối cao của chuyên môn hóa phân công và hợp tác, đòi hỏi việc sử dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên công cộng, trong đó bao gồm các nguồn năng lượng, nước, vật liệu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông và các ngành dịch vụ. Do vậy, mà có thể tiết kiệm một số lớn chi phí, đất đai; tập trung hóa hoạt động tiền tệ, tăng nhanh vòng quay và nâng cao hiệu quả của đồng vốn; cần phải tăng nhanh nhịp độ đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới, điều này tất nhiên dẫn đến hiệu quả kinh tế cao.
2. Nhân tố chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị
Nhân tồ chế ước cơ cấu bao gồm nhiều mặt, vừa có nhân tố khách quan, vừa có nhân tố chủ quan, tức nhân tố quản lý, các nhân tố này không ở trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động. Nói chung, nhân tố chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị chủ yếu có:
a. Tình hình phân bố các yếu tố sản xuất đô thị và khu vực đô thị
Các yếu tố này bao gồm sự phân bố tài nguyên thiên nhiên, số lượng và cơ cấu tố chất sức lao động, điều kiện vốn, trình độ công nghệ sản xuất, và trình độ sản xuất kinh doanh. Các yếu tố sản xuất của các đô thị và các khu vực đô thị khác nhau đều rất khác nhau. Ví như đô thị ở ven biển, tuy điều kiện tài nguyên thiên nhiên tương đối kém nhưng vốn, sức lao động, trình độ công nghệ và quản lý tương đối cao; đô thị trong lục địa có điều kiện tài nguyên thiên nhiên và nguồn sức lao động phong phú, nhưng điều kiện thị trường và tố chất sức lao động lại tương đối kém; đô thị trong khu vực có nhiều danh lam thắng cảnh và các bãi tắm đẹp, có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành du lịch. TP Hồ Chí Minh là một cảng biển, một cửa ngõ, thuận lợi giao lưu kinh tế với các khu vực trong nước và quốc tế; có nguồn lao động dồi dào, trình độ cao.
Về khách quan, sự phân bố khác nhau các yếu tố sản xuất quyết định các đặc điểm khác nhau của cơ cấu ngành kinh tế đô thị. Có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành đầu tư nhiều công nghệ, tiêu hao ít nước, năng lượng, nguyên liệu; có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành năng lượng, luyện kim, vật liệu xây dựng; có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành đòi hỏi phải đầu tư nhiều sức lao động nhằm tận dụng nguồn lao động tại chỗ. Do vậy, khi xác định cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, trước mắt cần căn cứ váo nguyên tắc lợi thế so sánh, phát huy đầy đủ ưu thế của các yếu tố sản xuất, ra sức sản xuất những sản phẩm với đầu vào ít, đầu ra nhiều.
Cần phải khảo sát tình hình phân bố các yếu tố sản xuất. Bởi lẽ các yếu tố này, ngoài tài nguyên thiên nhiên là không tái sinh, còn lại đều là khả biến: tố chất sức lao động có thể nâng cao bằng con đường đào tạo, bồi dưỡng; vốn có thể ngày càng hùng hậu thông qua việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh; trình độ công nghệ và quản lý kinh doanh cũng có thể thông qua việc tham gia cạnh tranh trên thương trường mà được nâng cao từng bước. Ngoài ra, sự biến đổi của quan hệ cung cầu trên thị trường cũng làm cho một số yếu tố sản xuất luôn luôn biến đổi, ví dụ như sức lao động do việc nâng cao tiền lương và mức sống mà mất đi ưu thế về giá cả.
b. Tình hình nhu cầu thị trường trong và ngoài nước
Đô thị với tính cách là trung tâm phát triển kinh tế của khu vực và của quốc gia, hoạt động kinh tế của nó chủ yếu là hướng ra ngoài đô thị, không chỉ hướng ra các khu vực khác trong nước, mà còn hướng ra thị trường quốc tế. TP Hồ Chí Minh là một đô thị cảng ở ven biển nên xu thế hướng ra thị trường quốc tế lại càng mạnh mẽ; vì vậy nhu cầu thị trường là một nhân tố căn bản chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, nhu cầu của thị trường là thiên biến vạn hóa. Cái đó không chỉ do sự tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự thay đổi hàng ngày của mức, cơ cấu, phương thức và tập quán tiêu dùng mà còn do cơ cấu các ngành kinh tế của các nước song song với sự phát triển kinh tế của nước mình mà phát sinh sự thay đổi, dẫn tới sự thay đổi nhu cầu ngoại thương của các quốc gia. Ví dụ như, ngày nay công nghệ mới của thế giới đang phát triển nhanh chóng, xã hội truyền thông đang phát triển lên xã hội thông tin, cơ cấu các ngành kinh tế của một số nước phát triển đã có sự thay đổi to lớn, tức chuyển từ các ngành công nghiệp truyền thống sang các ngành đầu tư nhiều chất xám với công nghệ tin học làm trung tâm, hình thành nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao. Sự thay đổi này dẫn đến sự điều chỉnh về tổng thể cơ cấu các ngành kinh tế.
Phương hướng chỉ đạo của nhu cầu thị trường trong nước và nhu cầu thị trường thế giới đối với sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, nói chung được biểu hiện trước hết ở việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, khi đã có lực lượng sản xuất tương đối lớn mạnh thì tiến lên đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Song điều đó không hề cản trở nền kinh tế của một số nước sau khi đã phát triển tới một trình độ nhất định, đô thị ở cảng ven biển có thể lấy nhu cầu thị trường thế giới làm phương hướng chỉ đạo, phát triển cơ cấu các ngành kinh tế hướng ngoại. Ngày nay, khi thị trường thế giới và phân công quốc tế đã có những thay đổi lớn lao, thì việc tham gia vào cuộc đại phân công quốc tế, theo nhu cầu thị trường quốc tế để tổ chức sản xuất và điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, đã trở thành cơ chế quan trọng chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị.
Cần căn cứ vào sự thay đổi nhu cầu thị trường để xác định sự thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý.
c. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối với các ngành kinh tế của đô thị
Trong điều kiện phân bố các yếu tố và nhu cầu thị trường nhất định, việc xác định cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị trực tiếp quyết định bởi đô thị đó có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có cơ sở khoa học hay không. Các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đô thị được đề ra căn cứ vào tình hình phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố sản xuất và tình hình nhu cầu thị trường, vào tính chất, công năng và vai trò của đô thị trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Các mục tiêu của chiến lược này trực tiếp quyết định phương hướng phát triển và cơ cấu cụ thể của các ngành kinh tế đô thị. Chẳng hạn các thành phố ven biển nước ta như Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu…trong đó có TP Hồ Chí Minh, cơ cấu các ngành kinh tế không chỉ là cơ cấu loại hình hướng ngoại, mà còn là cơ cấu loại hình thâm canh chất xám, với tính chất phục vụ và tính hiệu quả cao. Các thành phố này có thể căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mình để xác định các ngành kinh tế chủ đạo và các ngành kinh tế có liên quan tương ứng, hình thành một cơ cấu các ngành kinh tế riêng có, làm cho các ngành kinh tế từng bước phát triển từ loại hình thâm canh sức lao động và loại hình thâm canh vốn, sang loại hình thâm canh chất xám.
Trong hiện thực, cơ cấu các ngành kinh tế đô thị được hình thành thông qua cơ cấu đầu tư, nhưng mà cái quyết định phương hướng đầu tư lại là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối với các ngành kinh tế của đô thị có khoa học hay không, là mấu chốt làm cho cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị có hợp lý hay không. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu các ngành kinh tế đô thị được hình thành trong một thời gian dài theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; chiến lược phát triển và kế hoạch đầu tư của đô thị là một nhân tố vĩ mô chế ước sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị.
Thông qua việc tiến hành phân tích mối quan hệ giữa ba yếu tố nói trên ta thấy, chúng đều là nhân tố chủ yếu chế ước sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị. Trong đó tình hình phân bố các yếu tố sản xuất là nhân tố quan trọng hàng đầu.
B. Vài nét về cơ cấu thành phần kinh tế đô thị
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế trong thời kỳ này là nền kinh tế nhiều thành phần, nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên chủ nghĩa tư bản, do đó phải định hướng để sự vận động và phát triển của nó đi lên chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh để giữ vững định hướng đó là một quá trình khó khăn p