Đề tài Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế

Sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại của nhà nước. Vì vậy, thuế vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước, vừa là công cụ để nhà nước thực hiện những mục tiêu nhất định. Tuy nhiên để sử dụng công cụ này có hiệu quả thì nhà nước phải có những chính sách quản lí thuế đúng đắn, kịp thời phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì. Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm là một trong những hoạt động quan trọng trong quản lí nhà nước nói chung và quản lí thuế nói riêng. Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế không những đánh giá được mức độ tuân thủ pháp luật thuế của người nộp mà còn giúp phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế cũng như cơ quan thuế để từ đó có biện pháp xử lí kịp thời, nghiêm minh nhằm bảo đảm công bằng xã hội và hiệu lực quản lí thuế. Vậy thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế (VPPL) là gì? Thực trạng của những hoạt động ở nước ta hiện nay ra sao? Bài viết của em xin đề cập về vấn đế đó.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4379 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU. Sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại của nhà nước. Vì vậy, thuế vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước, vừa là công cụ để nhà nước thực hiện những mục tiêu nhất định. Tuy nhiên để sử dụng công cụ này có hiệu quả thì nhà nước phải có những chính sách quản lí thuế đúng đắn, kịp thời phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì. Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm là một trong những hoạt động quan trọng trong quản lí nhà nước nói chung và quản lí thuế nói riêng. Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế không những đánh giá được mức độ tuân thủ pháp luật thuế của người nộp mà còn giúp phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế cũng như cơ quan thuế để từ đó có biện pháp xử lí kịp thời, nghiêm minh nhằm bảo đảm công bằng xã hội và hiệu lực quản lí thuế. Vậy thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế (VPPL) là gì? Thực trạng của những hoạt động ở nước ta hiện nay ra sao? Bài viết của em xin đề cập về vấn đế đó. B. PHẦN NỘI DUNG.  I. Các lý luận cơ bản về hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lí VPPL thuế. 1. Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. * Khái niệm: Hoạt động quản lí Nhà nước chính là sự tác động có định hướng của chủ thể quản lí (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lí (đối tượng nộp thuế) nhằm đạt được mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân vào NSNN. Do vậy kiểm tra, thanh tra thuế là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt đông lãnh đạo quản lí nhà nước của cơ quan thuế. Kiểm tra, thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lí thuế theo mô hình chức năng. Kiểm tra, thanh tra thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm của họ. Về khái niệm chung thì kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế, nhằm đmar bảo pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế- xã hội. Về khái niệm riêng thì: - Kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá. - Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí những hành vi trái pháp luật. * So sánh hoạt động thanh tra với kiểm tra thuế. Thanh tra là một hoạt động kiểm tra nên giữa thanh tra và kiểm tra có những điểm giống nhau: - Về mục đích: Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý thuế. Đếu có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lí những VPPL luật thuế nhằm thúc đẩy các tở chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của PL thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lí thuế. - Về chủ thể: Chủ thể thanh tra, kiểm tra thuế là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật thường là cơ quan thuế. - Về đối tượng: Đối tượng của thanh tra, kiểm tra là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế. -Về nội dung: Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế. - Về phương pháp: thanh tra, kiểm tra thuế đều phải tiến hành các hoạt động phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh. Tuy nhiên thanh tra, kiểm tra thuế có những khác nhau cơ bản sau: - Về đối tượng: Thanh tra áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế, hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp. - Về phạm vi nội dung: Thanh tra thường là nội dung rộng, phức tạp, có thể liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau. Tính chất của thanh tra là một hoạt động dựa vào quyền lực của cơ quan quản lí nhà nước. Kiểm tra thuế là hoạt động trung tính, có thể là hoạt động của cơ quan quản lí nhà nước, có thể là hoạt động quản lí đơn thuần. - Về biện pháp áp dụng: thanh tra được áp dụng các biện pháp mạnh hơn (tạm giữ tang vật, tài liệu; khám nơi cất dấu tang vật, tài liệu – theo quy định của Luật quản lý thuế). - Về mục đích: Mục đích của thanh tra thuế là phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái pháp luật. Mục đích của kiểm tra thuế là phát hiện những sai lệch của đối tượng kiểm tra để ngăn chặn và điều chỉnh những sai lệch ấy. - Về thời gian: Thời gian thanh tra thường dài hơn thời gian kiểm tra thuế. Cụ thể thanh tra thuế thường là không quá 30 ngày, kiểm tra thuế thường không quá 5 ngày. * Mục tiêu của kiểm tra, thanh tra thuế. - Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành. - Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực. - Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, thanh tra, cơ quan thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn. -Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ. -Thông qua công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa những hành vị tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. * Nguyên tắc kiểm tra, thanh tra thuế. - Điều 75 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về nguyên tắc kiểm tra thuế, thanh tra thuế: “1. Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. 2. Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. 3. Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Như vậy để công tác kiểm tra, thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, ta cần đảm bảo một số nguyên tắc nhất định: - Chủ thể thanh tra, kiểm tra phải nhận thức đúng vấn đề, nội dung thanh tra, kiểm tra; xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự việc để kết luận thanh tra, kiểm tra được chính xác; phải thông báo đầy đủ, công khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra, kiểm tra đến kết luận thanh tra, kiểm tra để cá nhân, tổ chức có liên quan biết và giám sát việc thực hiện - Chủ thể thanh, tra kiểm tra phải phán ánh đúng sự vật, hiện tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự vật, hiện tượng. - Chủ thể thanh tra, kiểm tra phải tuân theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, các quy định của pháp luật. Hoạt động thanh tra, kiểm tra phải diễn ra đúng trật tự, đúng quy trình do ngành đã quy định tránh trường hợp làm cản trơt hoạt động bình của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. 2. Vi phạm pháp luật thuế. * Khái niệm: Trong khoa học pháp lí, VPPL được hiểu là hành vi làm trái các quy định của pháp luật, do tổ chức hoặc cá nhân thực hiện với lỗi xác định, gây thiệt hại đến lợi ích chung và do đó phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi đó của mình. Từ quan niệm này, ta có thể định nghĩa về VPPL thuế như sau: VPPL thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế, do tổ chức. cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi đó của mình. Ta có thể nhận diện hành vi VPPL thuế nhờ những dấu hiệu cơ bản sau: - Về chủ thể: là các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động hành thu thuế như người nộp thuế, cơ quan thuế hoặc công chức ngành thuế. - Mặt khách quan: VPPL thuế là hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung được thể hiện trong trật tự pháp luật, xâm hại đến những lợi ích chung hoặc lợi ích riêng đang được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: hành vi trốn thuế , khai man tiền thuế… - Mặt chủ quan: Lỗi của người vi phạm là cố ý hoặc vô ý. Tính chất có lỗi của người VPPL thuế được xem là một trong số các căn cứ để xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người thực hiện hành vi. - Khách thế: hành vi VPPL thuế làm phương hại đến những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ, những lợi ích đó có thể là lợi ích riêng của cá nhân hoặc lợi ích chung của toàn xã hội. * Phân loại VPPL thuế và các biện pháp xử lý VPPL trong lĩnh vự thuế: Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi VPPL thuế diễn ra rất đa dạng, tinh vi và phức tạp, với nhiều dạng thức khác nhau. Việc phân loại VPPL về thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt là giúp cho các nhà làm luật xây dựng được cơ chế xử lí phù hợp, thỏa đáng với từng nhóm loại và từng hành vi VPPL về thuế. Tuy nhiên, cho dù các vi phạm này tồn tại dưới những hình thức nào thì về phương diện bản chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hình vi phạm sau đây: - VP hành chính về thuế: là hành vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lí hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính. Theo Điều 1 Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế bao gồm: + Vi phạm các quy định về thu, nộp tiến thuế, tiền phạt. Hình thưc và mức độ xử + Vi phạm các quy định về đăng ký thuế; kê khai thuế; lập và nộp thuế, quyết toán thuế. + Vi phạm các quy định về kiểm tra thanh tra thuế. + Hành vi trốn thuế. - Đối với các vi phạm hành chính về thuế thì áp dụng chế tài hành chính để xử lí. Các biện pháp chế tài hành chính gồm biện pháp cảnh cáo, phạt tiền…được áp dụng đối với các nhóm hành vi vi phạm hành chính (gồm 5 nhóm đã nêu ở trên). - VP hình sự về thuế: là hành vi trái pháp luật luật hình sự, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ. Theo quy định của BLHS hiện hành thì các hành vi vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế được coi là tội phạm bao gồm các dạng cơ bản sau: + Tội trốn thuế (Đ161 BLHS). + Tội tham ô tài sản (Đ278 BLHS). + Tội nhận hối lộ (Đ279 BLHS). + Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Đ281 BLHS) … Nếu hành vi VPPL thuế của tổ chức, cá nhân cấu thành một hoặc nhiều tội phạm được quy định trong BLHS thì người vi phạm sẽ phải chịu các chế tài hình sự. Thực tiễn cho thấy các vi phạm hình sự chủ yếu trong lĩnh vực thuế là hành vi trốn thuế, hành vi tham ô tiền thuế, hành vi nhận hối lộ, hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ, hành vi cố ý làm trái các nguyên tắc quản lí tài chính trong lĩnh vự thuế. Trên thực tế các hành vi này đều được quy định là tội phạm trong BLHS năm 1999 và đều có thể bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật này, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi hành vi. - Các vi phạm khác về thuế: Trong lĩnh vực chấp hành pháp luật thuế, các VPPL về thuế không chỉ diễn ra dưới hình thức vi phạm hành chính hay vi phạm hình sự mà còn có thể diễn ra dưới những dạng khác như: VPPL thuế về hình thức…. 3. Mối quan hệ giữa thanh tra- kiểm tra với xử lí VPPL trong lĩnh vực thuế. Giữa thanh tra- kiểm tra với xử lí VPPL thuế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra mà phát hiện được những vi phạm và tiến tới hoạt động xử lí VPPL trong lĩnh vực thuế và ngược lại, những dấu hiệu của vi phạm là tiền đề để cơ quan thuế tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra. Vận dụng tốt mối quan này là một nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lí thuế, nó không những góp phần phát hiện, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm mà còn có tác dụng răn đe giáo dục giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật trong lĩnh vực thuế. II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế. 1. Ưu điểm và thành tựu: Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm là một chức năng thiết yếu đảm bảo cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng của quản lí nhà nước. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm nói chung và thanh tra, kiểm tra xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, góp phần phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế ngăn ngừa các mặt tiêu cực làm ổn định kinh tế- chính trị, tăng cường kỉ cương, công bằng xã hội. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện được nhiều vụ VPPL trong lĩnh vực thuế: -Theo số liệu thông kê từ năm 1999 đến năm 2005, qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã phát hiện nhiều vụ VPPL thuế nghiêm trọng đến mức phải truy cứu TNHS, cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang cơ quan công an là 1616 vụ vi phạm, thu hồi được cho NSNN 242,7 tỷ đồng. - Sau 6 tháng thanh tra, kiểm tra các đại lý xe máy trên toàn quốc (từ tháng 6 -12/2009) các chi cục thuế địa phương đã "rà" 395 lượt đối tượng nộp thuế, xử lý thu vào ngân sách nhà nước số tiền 2 tỷ 573 triệu 78.194 đồng, trong đó số thuế truy thu là 2 tỷ 262 triệu 630.020 đồng, gồm thuế giá trị gia tăng 777 triệu 341.045 đồng,  thuế Thu nhập DN 1 tỷ 485 triệu 288.975 đồng và xử lý phạt 311 triệu 248.174 đồng. - Bộ Tài chính cho biết từ năm 2010, cơ quan này đã thí điểm việc thanh kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp kê khai lỗ liên tiếp trong nhiều năm, nhưng vẫn duy trì và mở rộng hoạt động và đã thu được khoảng 4.000-5.000 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước từ công tác này. Mặc dù, con số này so với tổng doanh thu là không lớn, nhưng được xem là có ý nghĩa đáng kể trong việc đánh thức các doanh nghiệp tuân thủ quy định về thuế. Trong những năm vừa qua, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành công cự hữu hiệu để chống thất thu ngân sách và răn đe các hành vi vi phạm về thuế: - Mặc dù nền kinh tế mới chỉ kịp hồi phục sau khủng hoảng, nhiều chỉ tiêu tăng trưởng chưa đạt yêu cầu, nhưng kết quả thu từ  sản xuất kinh doanh (chưa kể thu từ  dầu thô) đạt khá, với mức vượt 35.300 tỷ đồng so với nhiệm vụ Quốc hội giao, đưa tỷ trọng này trong tổng thu ngân sách tăng từ  61,8% năm 2009 lên 62,5% năm 2010; đưa số thu ngân sách do ngành thuế quản lý chiếm tới 85% tổng số thu ngân sách nhà nước. Với kết quả này, ngành thuế hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu ngân sách giai đoạn 5 năm 2006-2010 với mức vượt 219,5 nghìn tỷ đồng so với dự  toán, tăng gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2010 – 2005; đạt tốc độ tăng thu bình quân 16,5%/năm (riêng thu nội địa trừ  dầu đạt tốc độ tăng thu bình quân 22,5%/năm), đáp ứng yêu cầu chi của các cấp ngân sách và góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Kết quả này có một phần đóng góp không nhỏ của công tác thanh tra, kiểm tra của ngành Thuế đã ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm của các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo sự công bằng, bình đẳng và đồng thuận thực hiện tốt các chính sách thuế trên toàn quốc. - Với chức năng nhiệm vụ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế (ĐTNT) trong việc chấp hành pháp luật thuế, giải quyết tố cáo về hành vi trốn thuế, lậu thuế liên quan ĐTNT thuộc phạm vi Cục Thuế quản lý, năm qua cơ quan thuế đã tăng cường triển khai đồng bộ và hiệu quả các biện pháp chống thất thu ngân sách từ công tác thanh tra. Trong đó, tập trung thanh tra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chú trọng các doanh nghiệp có doanh thu lớn, số thuế GTGT âm kéo dài hoặc không có số thuế nộp, những doanh nghiệp có số lỗ lớn; doanh nghiệp làng nghề có chi phí bất hợp lý; doanh nghiệp XDCB không kê khai doanh thu, bỏ ngoài sổ sách...Trong năm, cơ quan thuế đã lập kế hoạch thanh tra gần 55.000 doanh nghiệp, thực hiện được khoảng gần 400.000 doanh nghiệp, đạt gần 73% .Kết quả xử lý sau thanh tra truy thu và phạt được tổng số tiền hàng nghin tỷ đồng. Có thể nói, trong các giải pháp triển khai thu ngân sách của ngành Thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra có một vai trò rất quan trọng trong quá trình quản lý và thu ngân sách. Hoạt động thanh tra phát huy hiệu quả không chỉ xử lý kịp thời, truy thu thêm cho ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng mà còn giúp các doanh nghiệp nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước. 2. Hạn chế: nguyên nhân và giải pháp. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm nói chung và thanh tra, kiểm tra xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, song trên thực tế còn chưa phát huy được hết vai trò của nó, chưa thực sự là “tai- mắt của lãnh đạo”, chứ trở thành công cự hữu hiệu để chống thất thu ngân sách và răn đe các hành vi vi phạm về thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta nói chung, trình độ dân trí nước ta còn thấp, nhân thức và trách nhiệm về pháp luật chưa cao, chưa dựa trên thu thập thông tin và chưa đánh giá, phân tích phân loại mức độ rủi ro của thuế, và đối tượng nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin học vào việc thanh tra, kiểm tra, xử lí các vi phạm về thuế. * Lực lượng thanh tra, kiểm tra của toàn ngành Thuế hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Thực trạng: Thực tế, nhiều năm qua, năm nào ngành Thuế cũng để xảy ra các sai sót trong công tác chống thất thu. Một phần là do nóng vội, nhưng mặt khác là do lực lượng thanh tra viên quá mỏng và nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế. Thời gian qua vẫn còn không ít trường hợp khi kiểm tra việc nộp thuế, có thanh tra viên cố tình kéo dài thời gian, nhũng nhiễu gây bức xúc trong doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp trong tỉnh Bắc Kạn đang rất quan tâm tới việc Cty TNHH Đại Minh (Cty Đại Minh) "cả gan" gửi đơn tố cáo Đoàn kiểm tra của Chi cục Thuế thị xã Bắc Kạn đã “lợi dụng công tác để kéo dài thời gian kiểm tra nhằm doạ nạt, vòi tiền doanh nghiệp” đến các cơ quan Nhà nước tỉnh Bắc Kạn và Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính). Nội dung đơn tố cáo nêu rõ: Đoàn kiểm tra  3 người gồm ông Bùi Xuân Thanh làm trưởng đoàn, bà Lương Thị Huy và ông Đặng Đình Hoàng là thành viên. Trong Quyết định số 34 ngày 2/6/2010 của Chi cục Thuế thị xã Bắc Kạn "v/v kiểm tra thuế tại Cty Đại Minh", thời gian là 40 ngày, được thực hiện từ ngày 7/5 - 17/6/2010; Đoàn kiểm tra thuế đã mới biên bản hoàn tất công việc, theo biên bản, số thuế mà Cty Đại Minh còn phải nộp vào ngân sách Nhà nước là 279.008.578 đồng. Tuy nhiên ông Bùi Xuân Thanh đã “đặt giá” với doanh nghiệp: Phải chi 40 triệu đồng tiền mặt thì sẽ sửa lại biên bản để giảm số tiền thuế phải nộp từ 279.008.578 đồng xuống 174 triệu đồng Công tác thanh tra thuế luôn chấp hành đúng theo Nghị định 61 của Chính phủ. Theo đó, việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải thông báo cho doanh nghiệp trước khi công bố quyết định thanh tra ít nhất là 7 ngày. Theo quy định, thời gian thanh tra ở một doanh nghiệp không quá 30 ngày (chỉ tính ngày thực tế đến làm việc). Tuy nhiên có trường hợp thanh tra viên thuế cố tình kéo dài để nhũng nhiễu các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải chi một khoản tiền không nhỏ để việc thanh tra, kiểm tra diễn ra nhanh chóng, suôn sẻ hơn. Nguyên nhân: Đây chỉ là một trong số rất nhiều vụ việc mà thanh tra viên thuế bị lên án, tố cáo. Tình trạng trên vẫn còn tồn tại là do các thanh tra viên thuế còn thiếu đ
Luận văn liên quan