Trước đây việc nghiên cứu khu vực phân bố các nền văn minh, văn hóa dân tộc, các không gian xã hội dựa trên bộ môn địa lí nhân văn. Sau này khi nghiên cứu lên ngành được mở rộng nhiều bình diện khác nhau của khu vực được phân tích theo địa - văn hóa, địa - lịch sử, địa chính trị, địa - kinh tế, địa - văn học gắn con người và cuộc sộng cộng đồng trong một khuôn viên nhất định, "một khoảng xác định chứa đựng tất cả các sinh vật nằm trong đó". Cho nên việc quan tâm đến những mối liên kết của các quốc gia trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa là cần thiết
Như vậy để đề cập đến khái niệm cơ bản là không gian văn hóa - một không gian mang tính tổng thể, không gian sống của các cộng đồng người để giải thích đồng thời các thiết chế kinh tế xã hội, gia đình, tôn giáo trên khuôn viên địa lí môi trường với những mối tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội (không gian vũ trụ, không gian tâm thức, không gian tâm lí).
Để đám ứng nhu cầu nhận thức thế giới tự nhiên và xã hội khoa học đã phát triển theo hướng phân chia thành ngành và chuyên ngành cùng sự phát triển của khoa học liên ngành. Từ đó khu cực học cũng bắt đầu hình thành và phát triển.
Đề tài bước đầu tổng hợp những điểm khác biệt đang được thảo luận và kiểm chứng về khái niệm khu vực với nhiều cấp độ khác nhau. Nội dung nghiên cứu khu vực học bao trùm các đặc trưng về lịch sử, chính trị học, xã hội học, nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, văn học,. của khu vực nghiên cứu. Quan điểm tổng hợp, toàn cục với phương pháp tiếp cận liên ngành là tiếp cận nổi bật của nghiên cứu khu vực học.
Quá trình chuyển biến từ nghiên cứu khu vực cổ điển sang nghiên cứu khu vực hiện đại trên phạm vi thế giới chỉ chính thức diễn ra từ sau chiến tranh thế giới II, với sự chuyển dịch trọng tâm từ các nước Anh, Pháp sang nước Mỹ và muộn hơn sau đó là Nhật Bản. Nghiên cứu khu vực hiện đại hình thành và phát triển ở Mỹ và Nhật chính là do một nhu cầu nội tại của mình và một sự thay đổi cách nhìn và cách tiếp cận.
18 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10995 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tiểu luận phương pháp nghiên cứu của khu vực học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Phương pháp nghiên cỨu của khu vỰc hỌc
I. Sự ra đời và phát triển của khu vực học
Trước đây việc nghiên cứu khu vực phân bố các nền văn minh, văn hóa dân tộc, các không gian xã hội dựa trên bộ môn địa lí nhân văn. Sau này khi nghiên cứu lên ngành được mở rộng nhiều bình diện khác nhau của khu vực được phân tích theo địa - văn hóa, địa - lịch sử, địa chính trị, địa - kinh tế, địa - văn học gắn con người và cuộc sộng cộng đồng trong một khuôn viên nhất định, "một khoảng xác định chứa đựng tất cả các sinh vật nằm trong đó". Cho nên việc quan tâm đến những mối liên kết của các quốc gia trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa là cần thiết
Như vậy để đề cập đến khái niệm cơ bản là không gian văn hóa - một không gian mang tính tổng thể, không gian sống của các cộng đồng người để giải thích đồng thời các thiết chế kinh tế xã hội, gia đình, tôn giáo trên khuôn viên địa lí môi trường với những mối tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội (không gian vũ trụ, không gian tâm thức, không gian tâm lí).
Để đám ứng nhu cầu nhận thức thế giới tự nhiên và xã hội khoa học đã phát triển theo hướng phân chia thành ngành và chuyên ngành cùng sự phát triển của khoa học liên ngành. Từ đó khu cực học cũng bắt đầu hình thành và phát triển.
Đề tài bước đầu tổng hợp những điểm khác biệt đang được thảo luận và kiểm chứng về khái niệm khu vực với nhiều cấp độ khác nhau. Nội dung nghiên cứu khu vực học bao trùm các đặc trưng về lịch sử, chính trị học, xã hội học, nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, văn học,... của khu vực nghiên cứu. Quan điểm tổng hợp, toàn cục với phương pháp tiếp cận liên ngành là tiếp cận nổi bật của nghiên cứu khu vực học.
Quá trình chuyển biến từ nghiên cứu khu vực cổ điển sang nghiên cứu khu vực hiện đại trên phạm vi thế giới chỉ chính thức diễn ra từ sau chiến tranh thế giới II, với sự chuyển dịch trọng tâm từ các nước Anh, Pháp sang nước Mỹ và muộn hơn sau đó là Nhật Bản. Nghiên cứu khu vực hiện đại hình thành và phát triển ở Mỹ và Nhật chính là do một nhu cầu nội tại của mình và một sự thay đổi cách nhìn và cách tiếp cận.
Ở Việt Nam, nghiên cứu khu vực chính là sự đáp ứng hữu hiệu và cần thiết những nhu cầu phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế. Đó là cách tốt nhất để thấu hiểu một cách tổng thể và sâu sắc về chính đất nước và con người Việt Nam, làm cơ sở cho sự phát triển bền vững của đất nước.
II.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cơ bản của khu vực học là phương pháp liên nghành, đa ngành và xuyên ngành, dựa trên thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau để khám phá đối tượng
Các chuyên nghành khoa học xã hội và nhân văn và nghiên cứu khu vực
Sự phân ngành của các ngành khoa học xã hội và nhân văn những năm 90 của thế kỉ XVIII bắt đầu diễn ra sự phan chia các chuyên ngành nghiên cứu khoa học xã hội, phù hợp với sự hiểu biết của con người. Người ta cho rằng, mỗi chuyên ngành tường có sự tương ứng với một lĩnh vực nào đó của thế giới và chúng được coi là những chỉnh thể có thể và nên được nghiên cứu độc lập. Các chuyên ngành này được xác định ranh giới với nhau và tồn tại một cách bình đẳng. Trên cơ sở đó, chúng tao ra được những thành tựu khoa học vô cùng đồ sộ, tạo ra những khối tri thức cơ bản, hình thành nên bộ khung chương trình chủ yếu của tai liệu nghiên cứu.
Mỗi chuyên nghành hình thành cho mình những chương trình, khái niệm, nội dung,lý thuyết, phương pháp nghiên cứu,những lĩnh vực chuyên sâu và các tiêu chuẩn học lực riêng biệt. Sự phân chia và chuyên sâu một cách sâu sắc trong nội bộ các chuyên nghành đã làm giảm đi tính toàn diện và tính thống nhất của chúng. Ngày càng có nhiều người nhận thức ra rằng: Tất cả các ngành khoa học đều có quan hệ với nhau, tương tác lẫn nhau, định hình lẫn nhau và không thể ngiên cứu một cách riêng lẻ.
Bằng việc vận dung cách tiếp cận liên ngành và phương pháp nghiên cứu đa dạng để hiểu được các nền văn hóa và xã hội khác nhau, các học giả khu học đã biện luận rằng những hình thức mới của tri thức đòi hỏi phải có những bộ khung kiến tạo tri thức mới. Họ đã thách thức tính cục bộ của các khoa chuyên nghành trong việc khép kín những quy trình nhận thức.
Tuy nhiên trong giai đoạn đầu, phương pháp nghiên cứu khu vực học cũng có một số hạn chế :
+ Phương pháp này bị coi là không có tính chuyên môn, không thực sự mang tính học thuật, nên thường phải chịu địa vị thấp kém trong các cơ quan nghiên cứu
+ Các học giả khu vực học đều bắt đầu từ chuyên nghành xã hội và nhân văn truyền thống như sử học, ngôn ngữ học, văn học, xã hội học, ví như vừa là chuyên gia ngôn ngữ học vừa là chuyên gia Việt Nam học hoặc vừa là nhà sử học đồng thời là nhà nghiên cứu khu vực học... Thực tế đó đã ảnh hưởng đáng kể đến sự tồn tại độc lập và bản chất của bộ môn khoa học này
Phương pháp liên ngành
Liên ngành (Inter-disciplinarity hay Inter-disciplinary) là một thuật ngữ được tạo bởi hai từ inter và disciplinarity hay disciplinary. Inter có nghĩa là ở giữa (between) hay liên kết (connecting). Chẳng hạn, international là những gì thuộc về hai hay nhiều nước. Tương tự như vậy, disciplinarity là môn học hay là ngành học. Và như vậy, inter-disciplinarity là sự liên kết các môn học, các ngành học. Thông thường, mỗi chuyên ngành có một đối tượng nghiên cứu riêng và thường giải quyết những vấn đề chuyên biệt của ngành mình. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên, nhu cầu nhận thức của con người đặt ra vấn đề cần phải liên ngành để giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn. Khái niệm liên ngành trong bài viết này sẽ được xét đến trên quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung và các nhà nghiên cứu khu vực nói riêng.
Về phương diện lịch sử của khái niệm này, theo R. J. Ellis , liên ngành, theo ý nghĩa chung nhất của nó, thực chất đã được nêu ra và bàn đến từ khoảng giữa những năm 1920. Những tài liệu như vậy hiện vẫn được Hội đồng nghiên cứu Khoa học Xã hội Hoa Kỳ (United State’s Social Science Research Council - SSRC) lưu giữ. Vào thời gian ấy, SSRC đã mong muốn thúc đẩy việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến không chỉ một ngành. Có lẽ đây cũng không phải là một điều đáng ngạc nhiên vì vào thời gian đó, khoa học xã hội đã khá phát triển về phạm vi và cần đến sự hợp tác của các học giả từ nhiều chuyên ngành khác nhau. Theo những luận bàn thời đó, liên ngành đã được hiểu như là “một cách tiếp cận trong nghiên cứu khoa học xã hội trong đó có sự hợp tác của từ hai ngành khoa học trở lên”. Nội dung khái niệm này sau đó cũng được mở rộng nhanh chóng. Margaret Mead Margaret Mead là một nhà nhân học Mỹ nổi tiếng với những nghiên cứu điền dã tại Samoa vào những năm 1920, bà thuộc thế hệ các nhà nhân học đầu tiên thực hiện nghiên cứu điền dã và liên ngành để nghiên cứu đời sống của trẻ em nữ đến tuổi trưởng thành tại đảo Samoa, nam Thái Bình Dương, năm 1925-1926.
năm 1931 gọi đó là sự hợp tác (co-operation), sự thụ tinh chéo (cross-fertilization) trong khoa học xã hội. Từ những cách hiểu ban đầu đó, việc sử dụng khái niệm liên ngành đã ngày càng trở nên thông dụng, đặc biệt là trong hơn hai chục năm cuối thế kỷ XX vừa qua và những năm đầu tiên của thế kỷ XXI này.
Có thể nhắc đến một vài cách hiểu về liên ngành như sau:
Thứ nhất, liên ngành là một loại hình hợp tác học thuật trong đó các nhà chuyên môn được lấy từ hai hay nhiều chuyên ngành khác nhau cùng làm việc với nhau để cùng đạt đến những mục tiêu chung trong nhận thức đối tượng nghiên cứu .
Thứ hai, một số quan điểm khác cho rằng liên ngành không chỉ là sự liên kết giữa các chuyên gia từ các ngành khác nhau mà có khi còn là việc sử dụng đồng thời ít nhất hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành trở lên , các phương pháp này tồn tại trên nguyên tắc là phải có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau và bình đẳng với nhau về vai trò và nhiệm vụ trong nhận thức đối tượng nghiên cứu.
Liên quan đến việc định nghĩa thế nào là liên ngành, cần phân biệt rõ liên ngành với đa ngành (multidisciplinary). Theo R.J.Ellis, sự khác biệt này chủ yếu ở hướng tiếp cận. Tiếp cận đa ngành nhấn mạnh việc sử dụng các phương pháp và quy trình của nhiều chuyên ngành khác nhau một cách riêng biệt và độc lập, trong khi đó tiếp cận liên ngành lại tìm cách liên kết, thiết lập những mối quan hệ qua lại, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa những hệ phương pháp và quy trình của nhiều chuyên ngành khác nhau.
a) Liên ngành trong nghiên cứu khu vực
Sự phát triển của khoa học đã chứng minh những ưu thế của hướng tiếp cận chuyên ngành về tính rõ ràng, về khả năng phục vụ việc nghiên cứu chuyên biệt. Tuy nhiên, trong lịch sử nghiên cứu khu vực, các thành tựu nghiên cứu cũng lại cho thấy rằng để đi đến nhận thức về một khu vực, hướng tiếp cận liên ngành có lợi thế vượt trội so với tiếp cận chuyên ngành ở chỗ: thứ nhất, nó có thể tích hợp được những kết quả của các nghiên cứu chuyên ngành về một khu vực để nhận thức tổng hợp về khu vực đó, và thứ hai, nó có thể khai thác những khía cạnh của tri thức mà các chuyên ngành, do yêu cầu phải thiết lập và duy trì sự khác biệt với những chuyên ngành khác, có thể bỏ qua. Khu vực học có thể giúp các khoa học chuyên ngành vượt qua tính cục bộ của chúng. Tuy vậy, điều này cũng hàm chỉ những khó khăn không tránh khỏi của hướng tiếp cận liên ngành, đó là tiếp cận liên ngành cần phải được dựa trên những hiểu biết sâu sắc về những chuyên ngành mà nó liên kết. Do đó, thứ nhất, nó chỉ có thể được thực hiện bởi những người có trình độ cao; và thứ hai, nó khó có thể thực hiện được chỉ bởi một nhà nghiên cứu. Vì vậy, một trong những đặc điểm của nghiên cứu liên ngành là thường đòi hỏi phải nghiên cứu theo nhóm. Tất nhiên, điều này sẽ trở thành một tham vọng khó đạt được khi người ta quá cầu toàn về một kết quả nghiên cứu hoàn hảo theo hướng tiếp cận này.
Trong giới nghiên cứu khu vực, cách quan niệm về liên ngành chưa hẳn đã thống nhất, cho dù sự khác biệt trong cách dùng thuật ngữ này, theo Campbell John [7], có thể rất tinh tế. Điều này được ông chỉ ra trong bài phát biểu tại Hội thảo Quốc tế khu vực học Mỹ - Nhật tổ chức tại Tokyo năm 1995. Theo ông, các chuyên gia khu vực học ở cả hai nước đều thống nhất - một cách tự nhiên - rằng các quốc gia hay các khu vực mà họ nghiên cứu cần phải được nhận thức bằng cách tiếp cận mang tính tổng thể và toàn diện (holistic approach). Hơn nữa, do những vấn đề thực tiễn đặt ra, cũng là theo xu thế phát triển của khoa học, các chuyên gia đều có một khuynh hướng chung là phải xoá nhoà ranh giới của các cách tiếp cận chuyên ngành bằng cách tiếp cận liên ngành. Tuy nhiên, đó chỉ là quan điểm chung mang tính hướng đạo. Đi vào cụ thể hơn thì việc hiểu nội dung khái niệm liên ngành ở hai quốc gia này không dễ dàng thống nhất như vậy. Ngay trong bản thân giới khoa học của từng nước đã có sự không thống nhất. Chẳng hạn, ở Mỹ, các nhà nghiên cứu khu vực và các nhà nghiên cứu chuyên ngành đã không có đủ thiện chí để cùng thảo luận về vấn đề này. Các nhà khu vực học Mỹ cho rằng “liên ngành” ở đây đề cập đến sự áp dụng đồng thời các lý thuyết và phương pháp, là tận dụng các thế mạnh từ các khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, các nhà khoa học chuyên ngành thuần tuý lại không đồng ý như vậy. Họ cho rằng thành quả nghiên cứu của các nhà khu vực học chỉ như là một sự đào xới lên những vấn đề lạ lẫm và kỳ quặc hơn là việc tận dụng và phát triển các thế mạnh sắc bén của các khoa học chuyên ngành. Để đáp lại, các nhà khu vực học biện luận rằng bằng việc triển khai nghiên cứu trên những địa hình xa lạ, họ đã có những đóng góp quan trọng trong việc thử nghiệm những lý thuyết vẫn bị xem là kém ứng dụng. Tuy nhiên, những lý thuyết đó là gì thì họ lại không chỉ ra được. Tình hình như vậy ở Mỹ thực ra cũng không phải là cá biệt. Các nước khác, ngay cả Việt Nam ta cũng có một thực tế tương tự. Các nhà khu vực học Nhật Bản thì lại biểu hiện sự hoài nghi không dấu diếm về ngay chính bản thân những lý thuyết của cách tiếp cận này. Điều này thậm chí bị đẩy đến mức cực đoan khi họ giải thích liên ngành giống như là không có ngành gì.
Liên ngành trong các nghiên cứu khu vực, theo chúng tôi, không hoàn toàn giống nhau và không theo một mô hình chung duy nhất, nó phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu ở đây có thể chia thành hai loại và tương ứng với nó là hai kiểu nghiên cứu liên ngành khác nhau:
Loại 1: nghiên cứu để nhận thức và phát hiện ra bản chất hay tính đặc trưng của một khu vực. Loại này có thể gọi là nghiên cứu cảnh quan. Tương ứng với loại đối tượng này là cách tiếp cận liên ngành theo nhóm, tạm gọi là liên ngành kiểu 1.
Loại 2: nghiên cứu một vấn đề nào đó của một khu vực. Chẳng hạn, nghiên cứu lịch sử của một làng Nhật Bản, hay nghiên cứu những vấn đề di dân thời hiện đại ở Châu Đại Dương… Đối với các vấn đề kiểu này, các nhà nghiên cứu trước hết phải là người có chuyên môn sâu về một chuyên ngành mà vấn đề nghiên cứu đề cập đến như lịch sử hay xã hội học chẳng hạn và họ sẽ nghiên cứu các vấn đề trên bằng phương pháp liên ngành trong khu vực học. Tuy nhiên, cách nghiên cứu này không giống với kiểu 1 mà sẽ có những đặc trưng riêng, tạm gọi là liên ngành kiểu 2.
Đối với cả hai loại liên ngành trên, phương pháp nghiên cứu đặc trưng đều là nghiên cứu trên thực địa hay nghiên cứu điền dã (field research, field work) với một yêu cầu tối cao là sự thuần thục tiếng bản địa và phải trải nghiệm trong cuộc sống chung với dân bản địa. Cũng có quan niệm cho rằng nhà nghiên cứu không nhất thiết phải nghiên cứu trên thực địa mà có thể nghiên cứu qua văn bản hoặc khảo cứu các loại thư tịch. Thoạt đầu, quan niệm này không có nhiều ý kiến không tán thành, đặc biệt là trong thời kỳ hoàng kim của nền Đông phương học châu Âu. Tuy nhiên, khu vực học càng phát triển, người ta càng đòi hỏi sự trải nghiệm của nhà nghiên cứu tại khu vực họ nghiên cứu. Một nhà nghiên cứu khu vực người Mỹ, David L. Szanton, đã nêu khái niệm khu vực học như sau: “hiểu một cách rõ ràng nhất thì khu vực học là một nhóm gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động học thuật với những đặc điểm chung sau đây: (1) nghiên cứu sâu về ngôn ngữ; (2) nghiên cứu điền dã sâu sắc bằng tiếng bản địa; (3) nghiên cứu kỹ các sự kiện lịch sử địa phương, các quan điểm, các tài liệu, các tri thức về địa phương; (4) kiểm tra, thảo luận, phê phán hay phát triển các lý thuyết cơ bản dựa trên những quan sát cụ thể; và (5) có những thảo luận liên ngành liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn” [2]. Cách giải thích trên chứa đựng hàng loạt các ý niệm về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học này. Nó giống như một đường hướng nghiên cứu được đông đảo giới nghiên cứu khu vực không chỉ ở Mỹ mà ở nhiều nước khác chấp nhận.
Không những thế, các nhà khu vực học cấp tiến còn đòi hỏi mọi sự kiện tại khu vực phải được nhìn nhận và đánh giá từ điểm nhìn của người trong cuộc. Tất nhiên, điều này đôi khi bị coi như một đòi hỏi khắt khe, đặc biệt là đối với những học giả đã bị điểm nhìn “châu Âu trung tâm” chi phối toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu. Hơn nữa, việc quen vận dụng hệ thống khái niệm, những mô hình lý thuyết vốn ra đời trong cảnh huống phương Tây để nghiên cứu những phần còn lại của thế giới đôi khi khiến họ phải vật lộn để tự đứng vững trước những đòi hỏi của nền khu vực học hiện đại.
Đó là những vấn đề phương pháp luận chung cho cả hai loại liên ngành trên. Đi vào cụ thể, mỗi loại lại có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn, việc nghiên cứu liên ngành theo nhóm :loại 1 có một quy trình nghiên cứu đặc trưng mà nghiên cứu khu vực kiểu Nhật Bản là một hình mẫu. Theo quy trình này, phương pháp liên ngành thường được thực hiên theo 3 giai đoạn: 1. Đa ngành với các lĩnh vực nghiên cứu độc lập, cho ra kết quả độc lập; 2. Hợp tác các ngành với việc trao đổi kết quả; 3. Liên ngành với việc nghiên cứu toàn thể của cả nhóm, tổng hợp kết quả của các lĩnh vực để phát hiện đặc trưng bản chất của khu vực . Loại 2 thường do cá nhân các nhà nghiên cứu thực hiện với đối tượng chung là một vấn đề nào đó của khu vực. Đặc tính liên ngành của loại này thể hiện ở việc lý giải các sự kiện của khu vực trên nền tảng tri thức tổng hợp về khu vực đó, trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử cũng như trong sự so sánh với các khu vực khác. Đây là mô hình liên ngành trong nghiên cứu khu vực đặc trưng kiểu Mỹ.
Tuy nhiên, liên ngành trong nghiên cứu khu vực cũng đặt ra hàng loạt các vấn đề phải giải quyết và chúng tôi tin rằng để có thể giải quyết chúng, các nhà khu vực học cũng sẽ phải tốn không ít giấy mực. Đó là những vấn đề chẳng hạn như: cán cân giữa các chuyên ngành trong hoạt động liên ngành sẽ phải như thế nào? (Ví dụ: các nhà khu vực học Nhật Bản thì có khuynh hướng nghiêng về nhân học, trong khi đó các nhà khu vực học Mỹ lại có khuynh hướng nghiêng về sử học và khoa học chính trị…). Rồi, các chuyên ngành có nên được liên kết với nhau một cách bình đẳng hay không? Hay, cần phải có tri thức đến đâu về các chuyên ngành để có thể liên kết chúng lại một cách có hiệu quả?… Và có lẽ sẽ còn vô số các vấn đề khác nữa sẽ nảy sinh mà chúng ta, khi mới thực hiện ở những bước đầu, sẽ không thể hình dung ra hết.
b) liên ngành về lý thuyết - một chỗ dựa vững chắc cho Khu vực học
Các khía cạnh khác nhau của khái niệm liên ngành như đã dẫn đều nhắc đến sự liên kết của các nhà chuyên môn, của các phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, một khía cạnh quan trọng sự là sự liên kết những mô hình lý thuyết thì không được đề cập rõ ràng cho dù điều này có ảnh hưởng sống còn đến sự tồn tại vững chắc của khu vực học. Về mặt triết học, có những mô hình lý thuyết có khả năng làm chỗ dựa để lý giải nhiều vấn đề thuộc nhiều chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau và cũng có những mô hình lý thuyết là riêng của một chuyên ngành nào đó. Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu đặc thù, những mô hình lý thuyết luôn luôn được xem là thước đo cơ sở tồn tại của bất kỳ một bộ môn khoa học nào, cũng như là thước đo tính chuyên nghiệp và chất lượng khoa học của bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Một trong những nguyên nhân khiến khu vực học luôn phải chịu đựng những búa rìu học thuật là do nhiều nhà khoa học vẫn khăng khăng buộc tội rằng khu vực học chỉ mang tính ghi chép và mô tả, thiếu phân tích, không có lý thuyết dẫn đường, đi ngược lại tính chất khái quát hóa của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn then chốt, dù có hấp dẫn đến mấy thì nó cũng chẳng có đóng góp gì trong việc kiểm chứng và phát triển những lý thuyết khoa học. Về cơ bản, tất cả các nghiên cứu văn hóa, xã hội không thể tránh khỏi việc phải dựa vào một hay một số mô hình lý thuyết nào đó để giải thích những mối quan hệ, những đặc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu. Nếu không có một nền tảng lý thuyết chặt chẽ và hợp lý, nhà nghiên cứu sẽ không biết phải tìm kiếm những gì, giải thích chúng ra sao, trình bày chúng với tư cách là kết quả nghiên cứu như thế nào để thể hiện đó là kết quả của một sự nhận thức khách quan và khoa học. Để đáp lại những kết luận bi quan của không ít các nhà khoa học về việc khu vực học thiếu hẳn những mô hình lý thuyết cơ bản dẫn đường, rồi liên ngành trong khu vực học có nghĩa là không có ngành gì cả (interdiscipline is nondiscipline) , chúng tôi thấy rất cần phải tìm kiếm những cơ sở tồn tại vững chắc hơn cho bộ môn khoa học này.
Sự phát triển của khoa học trong thế kỷ XX vừa qua cho thấy những lý thuyết chính trị, xã hội và văn hóa khác nhau đã trở thành mối quan tâm chung của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn truyền thống. Điều này đã khuyến khích các học giả mở rộng sự trao đổi với nhau giữa các chuyên ngành. Nhưng nhiều học giả cũng nhận thấy, thậm chí công khai phát biểu rằng “phần lớn những gì cố tỏ ra mang tính liên ngành đều che giấu một nền tảng không vững chắc…” . Và một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nền tảng đó chính là những mô hình lý thuyết. Việc điểm qua những mô hình lý thuyết đã được các nhà khu vực học áp dụng để giải thích tính đa dạng của thế giới có thể sẽ trở thành những gợi mở có ý nghĩa đối với quan niệm về lý thuyết trong khu vực học cũng như đối với khả năng xem xét việc có thể hay không thể tích hợp