Pháp luật không khuyến khích các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nhưng khi các hành vi ấy xảy ra thì cần phải bị xử lý, trừng trị thích đáng nhằm ngăn ngừa, hạn chế. Nước ta vốn là một nước đang phát triển, các loại hàng hoá trong và ngoài nước tràn ngập trên thị trường. Do vậy việc bảo đảm chúng đúng phẩm chất, quy cách là rất khó. Thậm chí có những cá nhân, tổ chức chỉ vì một chút lợi nhuận trước mắt mà vi phạm những quy tắc nghề nghiệp, vi phạm pháp luật gây ra những hậu quả khôn lường cho chính người tiêu dùng trong nước. Mặt khác tuy pháp luật cũng đã có những quy định về vấn đề này nhưng chưa thật sự đầy đủ và chặt chẽ nên vẫn có những kẽ hở . Vì tính cấp thiết như vậy nên nhóm em đã chọn đề bài này để nghiên cứu, nhưng do lượng kiến thức có hạn và vấn đề còn mới nên rất mong thầy cô giúp đỡ.
19 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2379 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm ba vụ việc bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẤU
Pháp luật không khuyến khích các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nhưng khi các hành vi ấy xảy ra thì cần phải bị xử lý, trừng trị thích đáng nhằm ngăn ngừa, hạn chế. Nước ta vốn là một nước đang phát triển, các loại hàng hoá trong và ngoài nước tràn ngập trên thị trường. Do vậy việc bảo đảm chúng đúng phẩm chất, quy cách là rất khó. Thậm chí có những cá nhân, tổ chức chỉ vì một chút lợi nhuận trước mắt mà vi phạm những quy tắc nghề nghiệp, vi phạm pháp luật gây ra những hậu quả khôn lường cho chính người tiêu dùng trong nước. Mặt khác tuy pháp luật cũng đã có những quy định về vấn đề này nhưng chưa thật sự đầy đủ và chặt chẽ nên vẫn có những kẽ hở . Vì tính cấp thiết như vậy nên nhóm em đã chọn đề bài này để nghiên cứu, nhưng do lượng kiến thức có hạn và vấn đề còn mới nên rất mong thầy cô giúp đỡ.
NỘI DUNG
I: một số quy định pháp luật liên quan:
1. Một số khái niệm liên quan:
Bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
Theo điều 1 Pháp lệnh Người tiêu dùng thì: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức.
2. Quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng:
Theo Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do UBTV Quốc hội ban hành ngày 27 tháng 4 năm 1999 thì người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; được cung cấp thông tin trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, môi trường khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được hướng dẫn nhứng hiểu biết cần thiết về tiêu dùng.
Người tiêu dùng có quyền góp ý kiến trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thực hiện đúng trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Người tiêu dùng có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ thuộc nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và các hàng hoá, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố.
Nhưng đồng thời người tiêu dùng cũng phải có trách nhiệm tự bảo vệ mình trong việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, không được tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ gây tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục, gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và cộng đồng.
Người tiêu dùng có trách nhiệm phát hiện, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp luật.
Người tiêu dùng có quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật.
Theo Điều 630 BLDS 2005 quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng: “ Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”.
Ta thấy ở đây đã hội đủ bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đó là:
Có thiệt hại xảy ra: Đó là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tổn thất về tinh thần... của người tiêu dùng.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi bán không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng... gây thiệt hại cho người tiêu dùng là hành vi trái pháp luật.
Có lỗi của người gây thiệt hại: Nhà sản xuất, kinh doanh biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, dẫn đến thiệt hại cho khách hàng.
Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái hay ngược lại.
II: 3 vụ việc về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng:
Vụ việc 1: Công ty Việt Mỹ kiện FPT.
Tháng 10/2005, Công ty Cổ phần quảng cáo thương mại Việt Mỹ, địa chỉ số 75 Nguyễn Tất Thành, quận 4, TPHCM (gọi tắt Công ty Việt Mỹ) ký hợp đồng thuê dịch vụ Hosting của Công ty Cổ phần viễn thông FPT (FPT Telecom). Đây là dịch vụ lưu trữ website và sử dụng email theo tên miền, nôm na là lưu trữ thông tin của khách hàng trên mạng Internet.
Ngày 6/2/2007, toàn bộ hệ thống email của Công ty Việt Mỹ bị kẹt mạng và ngày hôm sau, khi truy cập mạng, tất cả các thông tin dữ liệu của 10 email bị mất sạch. Ông Phan Quý Ngà - Tổng giám đốc Công ty Việt Mỹ - cho biết, những thông tin lưu trữ trên email của công ty bị mất đã làm cho công việc kinh doanh gián đoạn, ngoài việc mất uy tín với khách hàng, mức thiệt hại về kinh tế là rất lớn.
Sau khi sự cố xảy ra, Công ty Việt Mỹ cho biết, công ty này đã nhiều lần liên hệ với FPT Telecom để khắc phục sự cố mạng và bồi hoàn mức thiệt hại, nhưng phía FPT Telecom đã thiếu thiện chí trong việc thực hiện.
Ông Mai Xuân Khôi - Phó Giám đốc Trung tâm trực tuyến của FPT Telecom - cho biết: “Với thiện ý khắc phục thiệt hại và nỗ lực để 2 bên hợp tác lâu dài, công ty chúng tôi đã nhanh chóng liên lạc để khắc phục sự cố trên. Cụ thể ngày 22/3, FPT Telecom đã gửi văn bản đề xuất “miễn phí dịch vụ Hosting 30 ngày (tính từ ngày hết hạn hợp đồng đã ký), tăng dung lượng Hosting lên gấp đôi (400 MB) trong thời gian 1 năm tính từ ngày hết hạn hợp đồng và giảm 20% giá trị phụ lục hợp đồng cho gia hạn năm kế tiếp, nhưng Công ty Việt Mỹ đã từ chối. Ngày 31/3, FPT Telecom gửi tiếp văn bản đề xuất, không thu phí dịch vụ 1 năm với giá trị 6 triệu đồng, phía Việt Mỹ vẫn không chấp nhận”.
Theo ông Khôi, yêu cầu của Việt Mỹ là hoàn toàn không hợp lý với các lý do: Nội dung của các hòm thư nói chung hay nội dung thư là các thông tin cá nhân của từng người, bản thân nhà cung cấp dịch vụ như FPT Telecom không được can thiệp vào nội dung. Nội dung thư điện tử do người dùng tự quản lý; vai trò của nhà cung cấp dịch vụ là đảm bảo hệ thống thuê thông suốt không bị gián đoạn đến tay người tiêu dùng và người tiêu dùng có trách nhiệm bảo quản thư.
Để đòi quyền lợi, Công ty Việt Mỹ đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân TP.HCM để kiện FPT Telecom. Tuy nhiên khi vụ kiện này còn chưa được đem ra xét xử thì đến ngày 26/6, cả hai Cty đều đã có những văn bản gửi đến một số báo, đài cáo buộc nhau về trách nhiệm phải chịu trong sự cố mới nhất xảy ra ngày 21/6: Website của Việt Mỹ (www.vietmy.vn) bị hacker tấn công.
Theo "Đơn đề nghị can thiệp" Việt Mỹ gửi đến các báo, từ 16 giờ ngày 21/6 đến 19 giờ ngày 24/6, FPT Telecom đã để cho hacker tấn công vào website của Việt Mỹ gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Cty này, đồng thời làm ảnh hưởng dữ liệu trong website. Website của Việt Mỹ đã có gần 2.000 khách hàng và gần 200.000 lượt truy cập.
"Sau khi xảy ra sự cố, Cty chúng tôi đã liên lạc FPT bằng điện thoại và công văn nhưng FPT vẫn không phối hợp khắc phục sự cố" – Việt Mỹ viết. Cũng theo Việt Mỹ, ông Trần Hùng Cường - GĐ Trung tâm Cứu hộ máy tính và an ninh mạng 911 - cho rằng website của Việt Mỹ bị hacker tấn công xảy ra từ máy chủ của FPT. Địa chỉ IP chỉ đến khi truy cập vào website này là 210.245.22.128, mà đầu số 210.245 là địa chỉ máy chủ FPT. Tuy nhiên, FPT Telecom đã bác bỏ hầu hết lập luận và cáo buộc của Việt Mỹ. Nhà cung cấp dịch vụ này cho rằng hệ thống máy chủ của mình "được quản lý theo cơ chế kỹ thuật riêng nhằm đảm bảo an ninh hệ thống ở mức cao và hạn chế ảnh hưởng tối đa đến các khách hàng khác".
Theo FPT Telecom, website của Việt Mỹ bị tấn công là do lỗi lập trình website, mã nguồn website không tuân thủ những nguyên tắc bảo mật nên hacker có thể đưa lên website những phần mềm phá hoại. FPT Telecom cho biết đã ghi nhận được hacker đã đưa lên thư mục "thumb" trong mã nguồn của website 2 virus backdoor là "pic.aspx" và "co.php".
Với lập luận như thế, FPT Telecom đã trích lục một số điều khoản trong hợp đồng (điều 4.1: Việt Mỹ chịu trách nhiệm về nội dung thông tin thuê bên B (FPT) lưu giữ, hoặc các thông tin bên A (Việt Mỹ) tự cài đặt trên máy chủ tại điểm thực hiện dịch vụ của bên B, đảm bảo các thông tin này không chứa các phần mềm phá hoại) để khép trách nhiệm về phía VM.
Nhà cung cấp dịch vụ còn cảnh báo khách hàng: Trong trường hợp Việt Mỹ còn để xảy ra các trường hợp không bảo đảm theo điều 4.1, Việt Mỹ "phải chịu trách nhiệm trước pháp luật" và FPT Telecom sẽ chấm dứt hợp đồng với VM trước thời hạn (27/10/2007).
Theo chúng em thấy: Cách giải thích của Việt Mỹ là không hợp lý lắm , tuy nội dung của các hòm thư hay nội dung của thư là các thông tin cá nhân nhưng đối với từng người nó có giá trị khác nhau. Nếu theo cách giải thích này thì bưu điện làm mất thư của khách hàng chỉ phải bồi thường tờ giấy thôi sao? Một bức thư đối với người khác thì nó chỉ là một tờ giấy lộn không hơn không kém nhưng đối với chủ nhân của nó thì đó lại là tài sản vô giá.
Căn cứ vào hợp đồng số 002482/ FPTHCM-NOC được ký giữa FPT Telecom với công ty Việt Mỹ thì tại điều 5 (trách nhiệm của FPT Telecom) có ghi rõ nhà cung cấp dịch vụ “chịu trách nhiệm về việc bảo đảm tính bảo mật về hệ thống, an toàn về cơ sở dữ liệu và tính hoạt động thông suốt”. Vậy việc gián đoạn và mất thông tin của công ty Việt Mỹ rõ ràng là trách nhiệm của phía FPT, việc cần làm bây giờ chỉ là xác định mức bồi thường là bao nhiêu và việc này cũng không hề dễ dàng. Như trên đã nói vì là thông tin nên việc xác định thiệt hại cũng rất khó khăn, dựa vào tiêu chí nào để xác định, cơ quan nào sẽ đứng ra để xác định?
Sự đôi co hiện nay giữa đôi bên chỉ "đổ thêm dầu vào lửa" mà không thể phân sự rạch ròi vì thiếu một tổ chức trung gian thẩm định, điều tra xem lỗi để xảy ra sự cố thuộc về ai. Song chỉ qua sự tranh cãi, cũng gióng lên hồi chuông cảnh báo: Vấn đề chất lượng dịch vụ và an ninh mạng có thể đẩy các quan hệ thương mại trong lĩnh vực tin học, viễn thông đến mức căng thẳng.
Vụ việc 2: Nước tương chứa chất 3-MCPD.
Từ cuối tháng 5/2007 dư luận cả nước, từ các nhà sản xuất đến quản lí nhà nước, đang xôn xao về chất lượng sản phẩm hàng hoá (CLHH) với chất 3-MCPD trong nước tương (3-MCPD là tên viết tắt của chất thuộc nhóm cloropropanol, có cấu tạo phân tử 3-cloro-1,2- propandiol, theo EU chất này có thể gây ung thư ở hàm lượng 0,02mg/l).Trước năm 2005 cũng đã có những cảnh báo về chất độc 3-MCPD trong nước tương (nước chấm) được sản xuất từ khô đậu đỗ. Năm 2005 khi có thông tin từ Bỉ về chất 3-MCPD trong nước tương Chin-su thì nhà sản xuất đã có thái độ không bình thường: phủ nhận kết quả kiểm tra của Bỉ (tung tin mẫu có thể là hàng giả), giải thích về sự thách thức của các tiêu chuẩn về chất lượng (quy định về chất 3-MCPD ở mức không nhiều hơn: của EU, Ôxtraylia, New Zealand là 0,02, Việt Nam và Hoa Kì là 1mg/l, trong khi mẫu kiểm tra ở Bỉ là 86mg/l), công bố sản phẩm của cơ sở là “sạch” và vẫn đạt Hàng Việt Nam chất lượng cao.
Lúc đó cơ quan quản lí nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm (ATVSTP) là Bộ Y tế, trực tiếp trong vụ việc là Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh đã lấy mẫu kiểm tra. Mẫu được kiểm tra do Sở Y tế TP HCM và cả ở cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Y tế. Qua kiểm nghiệm thấy có đến 20 cơ sở năm 2005 và 17 cơ sở trong 5 tháng đầu năm 2007 có mẫu không đạt: chất độc hại 3-MCPD đều vượt ngưỡng cho phép, thậm chí gấp hàng nghìn lần. Nhưng kết quả đã không được công bố chi tiết mà chỉ tung ra một nhận xét chung chung là có một số loại nước tương có chứa chất độc gây ung thư là 3-MCPD với hàm lượng rất cao.
Người tiêu dùng không thể an tâm, dư luận không thể chịu được với lối thông tin nửa vời. Không thấy doanh nghiệp nào có hoạt động cải tiến trong sản xuất nhằm giảm thiểu 3-MCPD. Sản phẩm nào có chứa độc hại để người tiêu dùng không sử dụng. Khi bị áp lực quá mạnh, từ giới tiêu dùng, dư luận báo chí đến cơ quan cấp trên, Thanh tra Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh buộc lòng không thể giấu mãi đành phải công bố danh tính các doanh nghiệp có sản phẩm chứa chất độc hại sau 2 năm (thậm chí 6 năm) ém nhẹm thông tin. Bây giờ biết sự thật, bao nhiêu người và mỗi người đã đưa vào cơ thể bao nhiêu gam chất độc gây ung thư là 3-MCPD qua sử dụng nước tương? Dư luận và người tiêu dùng đang đặt bút tính, chưa biết tác hại sẽ đến mức thế nào? Bộ Y tế, UBND Thành phố HCM đã vào cuộc để xử lý vụ che giấu thông tin chất lượng sản phẩm này. Doanh nghiệp phải chủ động và trung thực về chất lượng hàng hoá
Thông tin thiếu chi tiết tưởng là vô hại nhưng đã bị lợi dụng: một công ty đã có ngay hành động có thể coi là lừa đảo bằng việc từ ngày 08/9/2005 đã tổ chức “Lễ công bố sản phẩm nước tương sạch”. Tại buổi lễ họ công bố có công nghệ sản xuất nước tương sạch và sẵn sàng chuyển giao công nghệ. Trong khi sản phẩm của họ, mà chất lượng đang được bưng bít, có hàm lượng độc chất vượt quy định đến… hơn 2300 lần! Các doanh nghiệp khác có sản phẩm vi phạm cũng không hề có hành động khắc phục. Đến nay khi sự bưng bít kết quả kiểm tra chất lượng bị đưa ra ánh sáng, các doanh nghiệp đã phải nhận trách nhiệm của mình. Ban đầu là các doanh nghiệp phải công khai xin lỗi khách hàng, phải tiến hành việc thu hồi sản phẩm, phải vội vàng cải tiến công nghệ để có sản phẩm sạch đích thực. Nhưng dư luận người tiêu dùng đang tính đến đòi bồi thường. Thiệt hại khôn lường còn đang ở phía trước.
Lẽ ra khi được phản hồi từ thị trường thì việc đầu tiên của nhà sản xuất là tiếp cận thị trường, đánh giá thực tế, có biện pháp khắc phục kịp thời…Nhưng cơ sở đã không làm theo chân lí đó mà lại chọn kiểu liên minh ma quỷ, hành vi tiếp tục dựa trên sự thiếu trung thực. Thậm chí họ vẫn chạy tham gia để có danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao?! Cuối cùng hệ lụy đến nay phải nói chính xác là các doanh nghiệp đã có triệu chứng vi phạm điều 157 về sản xuất hàng giả là thực phẩm của Bộ Luật hình sự!
Nguyên tắc đầu tiên trong tư duy mới về quản lí chất lượng là hướng tới khách hàng đã bị các doanh nghiệp bỏ qua, để giữ tư duy cũ bảo vệ mình bằng tập tài liệu “đầy đủ hồ sơ pháp lí đã được duyệt” (có cả sự quan liêu). Tư duy trách nhiệm về CLHH hiện nay rất rõ ràng: “hồ sơ pháp lí về CLHH” có khi chỉ sử dụng cho doanh nghiệp và cơ quan chức năng giám sát sản xuất kinh doanh, còn người tiêu dùng chỉ trên hàng hoá cụ thể!
Đáng lẽ, với chức năng quản lí nhà nước, các đơn vị chức năng thuộc Bộ Y tế và Sở Y tế TP HCM phải thông báo, xử lí vi phạm, khuyến cáo người tiêu dùng… thì họ lại làm ngược lại: ém nhẹm thông tin (hoặc theo nghĩa chờ ý kiến chỉ đạo của Bộ), mặc nhà sản xuất cứ tuôn sản phẩm chứa chất độc ra thị trường và mặc người tiêu dùng cứ “tự chọn”!?
Giải thích cho việc che giấu thông tin về việc phát hiện ra nhiều doanh nghiệp có sản phẩm chứa chất độc hại 3-MCPD, Sở Y tế đã nêu lí do là không tin chắc ở kết quả kiểm nghiệm. Còn cơ sở kiểm nghiệm thuộc Bộ thì lại chờ ý kiến chỉ đạo của Bộ thì mới công bố!? Lí do này không xác thực và cũng là một “bệnh” của ngành y tế Việt Nam. Có trang web viết rằng ở Việt Nam các bác sỹ điều trị nhiều khi không tôn trọng kết quả xét nghiệm (hoá học, X-quang…). Còn ở đây họ không tin kết quả của cơ sở kiểm nghiệm chuyên nghiệp. Nhưng nếu có nghi vấn thì lẽ ra phải tuân thủ quy trình là yêu cầu làm lại, hoặc bổ sung số liệu của cơ sở khác (thậm chí nước ngoài) thì cơ quan chức năng thuộc Bộ và Sở Y tế TP HCM lại chọn phương pháp im lặng (!?); để đến bây giờ …
Trong điều kiện này, chỉ cần im lặng không công bố vi phạm về chất độc chết người trong sản phẩm thì đã là vàng với cơ sở sản xuất rồi. Vì thế có cơ sở để dư luận nghi ngờ: Liệu có thể tin cơ quan y tế “im lặng” là do không tin ở kết quả kiểm nghiệm, chứ hoàn toàn không có tiêu cực? Việc làm này của cơ quan chức năng thuộc Bộ và Sở Y tế TP HCM rất có thể đã vi phạm các điều 165 và điều 286 về thiếu trách nhiệm trong công tác quản lí theo Luật Hình sự.
Các cơ quan chức năng nhà nước thì như vậy, còn về phía các chủ cơ sở sản xuất thì sao? Ngay từ khi sản xuất họ liệu có biết sản phẩm của mình độc hại không? Theo quy định của Bộ Y tế, sản phẩm nước tương của các cơ sở sản xuất trong nước phải đạt độ đạm toàn phần thấp nhất là 10N và buộc phải ghi trên nhãn. Thế nhưng muốn đảm bảo 3-MCPD không được vượt mức cho phép thì nhà sản xuất phải dùng công nghệ lên men. Nhưng dùng công nghệ lên men thì không thể nào đáp ứng hàm lượng đạm theo Bộ Y tế yêu cầu. Vậy đây có phải là quy định làm khó doanh nghiệp? Nhưng thông qua đó cũng khẳng định một điều rằng các cơ sở sản xuất biết được sản phẩm của mình không đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm nhưng họ vẫn đưa ra thị trường. Theo Điều8, khoản 2, điểm b của Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm thì nghiêm cấm hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm có chứa chất độc và bị nhiễm độc.
Vấn đề đặt ra ở đây là việc xác định lỗi. Căn cứ vào điều 308 BLDS năm 2005 thì trong trường hợp này lỗi của các nhà sản xuất là lỗi cố ý gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo điều 307, BLDS năm 2005. Dựa vào những yếu tố, những cơ sở trên đã thoả mãn bốn điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà cụ thể ở đây là bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Điều 630 BLDS 2005 quy đ ịnh: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không đảm bảo chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”. Như vậy ở đây việc người tiêu dùng khởi kiện đòi các nhà sản xuất bồi thường thiệt hại là hoàn toàn chính đáng, đúng quy định của pháp luật. Thế nhưng trên thưc tế, quyền lợi của người tiêu dùng khi mua phải nước tương có chứa hoá chất gây ung thư đã được bảo vệ chính đáng hay chưa? Có nên chăng các nhà chuyên môn và cơ quan có thẩm quyền hãy “lên tiếng”, vào cuộc để giúp ngươi tiêu dùng khỏi tình trạng “tiền mất, tật mang”?
Sự kiện này là bài học cho cơ quan quản lí nhà nước phải thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của mình. Số liệu kiểm tra chất lượng phải do cơ sở thử nghiệm chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan quản lí nhà nước phải công bố để người sản xuất và người tiêu dùng biết và tự chủ xử lí vụ việc theo nhu cầu cụ thể. Cơ quan quản lí và doanh nghiệp bình đẳng trước pháp luật về đánh giá và xử lí theo mức độ vi phạm. Vì vậy công khai và minh bạch là chìa khoá cho bình đẳng và nghiêm túc trước pháp luật!
Một bài học nữa là năng lực đánh giá chất lượng hàng hoá. Hiện nay hệ thống các phòng thử nghiệm ở Việt Nam cơ bản đã được hình thành từ thời bao cấp. Đó là mỗi ngành có một phòng thử nghiệm (quen gọi là labo, phòng phân tích, trung tâm kiểm nghiệm…) đáp ứng chỉ một phần yêu cầu quản lí của ngành. ở một tỉnh thường thì các Sở Y tế, Nông nghiệp, Xây dựng, Khoa học và công nghệ, Tài nguyên và môi trường… mỗi ngành có phòng thử nghiệm riêng. Các phòng này có trang bị tương đối giống nhau phần cơ bản và nói chung đều không đáp ứng đủ nhu cầu quản lí của ngành nên những đánh giá đầy đủ lại phải mang đến các phòng thử nghiệm ở Trung ương.
Rõ ràng hệ thống các phòng thử nghiệm của chúng ta đã bị lạc hậu, chưa được nhà nước đánh giá đúng yêu cầu và năng lực phục vụ kinh tế xã hội thời hội nhập. Quy hoạch các phòng thử nghiệm quốc gia do Bộ Khoa học và công nghệ chỉ đạo, trực tiếp là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng phối hợp các Bộ thực hiện, đã không theo kịp tiến độ của phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập của đất nước chúng ta. Cần xác lập tư duy về hội nhập, về thoả thuận thừa nhận lẫn nhau, về thử nghiệm theo ISO IEC 17025 thay thế tư duy mỗi ngành một lãnh địa thử nghiệm, manh mún, năng lực thấp, không có khả năng cạnh tranh, không có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, dễ bị thói quan liêu chi phối.
Các số liệu thử nghiệm, xét nghiệm phải trở thành căn cứ khoa học của quản lí nhà nước, của các hoạt động chuyên môn, được