Đề tài Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng (file word)

Cạnh tranh là vấn đề tất yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong cuộc ganh đua đó, các doanh nghiệp sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ như: Tuyên truyền, giới thiệu, khuyếch trương hàng hóa dịch vụ, tổ chức việc bán hàng có giảm giá, có quà tặng Các hoạt động này được gọi là xúc tiến thương mại và là quá trình tất yếu mà doanh nghiệp phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại mà ta không thể không kể tới là hình thức khuyến mại, vậy để tìm hiểu khuyến mại có những hình thức nào được pháp luật quy định và thực tiễn áp dụng quy định về khuyến mại như thế nào, nhóm em đã quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng” là bài tập nhóm lần này. Dù đã cố gắng rất nhiều, song do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình làm bài, vậy kính mong nhận được sự quan tâm tạo điều kiện của các thầy cô trong tổ bộ môn giúp chúng em hoàn thiện bài tập của mình.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3825 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng (file word), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Cạnh tranh là vấn đề tất yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong cuộc ganh đua đó, các doanh nghiệp sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ như: Tuyên truyền, giới thiệu, khuyếch trương hàng hóa dịch vụ, tổ chức việc bán hàng có giảm giá, có quà tặng… Các hoạt động này được gọi là xúc tiến thương mại và là quá trình tất yếu mà doanh nghiệp phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại mà ta không thể không kể tới là hình thức khuyến mại, vậy để tìm hiểu khuyến mại có những hình thức nào được pháp luật quy định và thực tiễn áp dụng quy định về khuyến mại như thế nào, nhóm em đã quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng” là bài tập nhóm lần này. Dù đã cố gắng rất nhiều, song do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình làm bài, vậy kính mong nhận được sự quan tâm tạo điều kiện của các thầy cô trong tổ bộ môn giúp chúng em hoàn thiện bài tập của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG 1. Khái niệm và đặc điểm của khuyến mại 1. 1.Khái niệm Các doanh nghiệp nhận thức được rằng muốn thu hút và hướng sự lựa chọn của khách hàng tới sản phẩm của mình, ngoài việc phải xây dựng một chiến lược kinh doanh cụ thể thì khuyến mại giữ một vai trò cực kì quan trọng, quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các chủ thể kinh doanh càng nhiều, sự cạnh tranh càng lớn và khuyến mại trở thành công cụ thiết yếu. Vậy khuyến mại là gì và có tác dụng như thế nào? Tại sao các thương nhân lại chấp nhận bỏ ra một khoản tiền khổng lồ cho hoạt động khuyến mại? Khuyến mại xuất hiện khá muộn ở Việt Nam, chỉ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì loại hình hoạt động đa dạng này mới thực sự được biết đến. Song hành cùng với nó là các quy định của nhà nước trong Luật thương mại nhằm quản lí, điều chỉnh cách mối quan hệ phát sinh trong hoạt động khuyến mại, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng như đảm bảo cho hoạt động xúc tiến thương mại của các thương nhân diễn ra một cách ổn định và lành mạnh. Luật thương mại 2005 đã ghi nhận khái niệm khuyến mại tại Điều 88 như sau: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Từ định nghĩa trên cho thấy chức năng nhiệm vụ chủ yếu của khuyến mại chính là nhằm kích thích nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng thông qua việc dành cho khách hàng một số lợi ích nhất định 1.2. Đặc điểm của khuyến mại Cách thức thực hiện khuyến mại tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định như phát quà tặng, giảm giá… Trên cơ sở khái niệm về khuyến mại, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của khuyến mại như sau: Thứ nhất, về mặt chủ thể thì khuyến mại phải là hành vi thương mại do thương nhân thực hiện. Để tăng cường cơ hội thương mại,thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại do thương nhân khác cung cấp trên cơ sở hợp đồng dịch vụ giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại. Thứ hai, về cách thức xúc tiến thương mại là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Việc “dành thêm” những lợi ích nhất định đó nằm ngoài giá mà người bán hàng và người mua hàng đã thỏa thuận. Chẳng hạn như khi mua xe máy khách hàng sẽ được tặng thêm mũ bảo hiểm thì đó chính là lợi ích vật chất được “dành thêm” không tính vào giá mua xe máy đó. Tùy thuộc vào mục tiêu khuyến mại, trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường hay điều kiện kinh phí mà lợi ích dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử…hoặc những lợi ích vật chất khác. Đối tượng được khuyến mại có thể là người tiêu dùng, cũng có thể là các trung gian phân phối (ví dụ: đại lý bán hàng…) Thứ ba, mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, tức là tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại cho mình. Để thực hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu một sản phẩm mới, kích thích trung gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng lượng hàng đặt mua… thông qua đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Khi sử dụng cách thức để xúc tiến thương mại là khuyến mại, thương nhân cũng nhận thấy đây là một hình thức pháp lý để giúp mình tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán, cung ứng dịch vụ. Mục đích này xuyên suốt quá trình thương nhân tiến hành khuyến mại, giúp kích đẩy thương vụ và tìm kiếm cơ hội mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho mình. 2. Quy định về các hình thức khuyến mại và thủ tục khuyến mại Luật Thương mại 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP đã quy định nhiều hình thức khuyến mại khác nhau để thương nhân có thể lựa chọn được hình thức phù hợp với mục tiêu khuyến mại, điều kiện kinh phí… của doanh nghiệp mình nhằm dành thêm cho khách hàng những lợi ích nhất định. Đó là những lợi ích mà khách hàng có thể sẽ được hưởng trước, trong và sau khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ do thương nhân cung cấp trong thời gian khuyến mại. Các hình thức khuyến mại bao gồm: 1. Hình thức đưa hàng hóa mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Hàng mẫu đưa khách hàng dùng thử phải là sản phẩm cần được tăng sức mua thông qua khuyến mại. Hàng mẫu phải là hàng có chất lượng, kiểu dáng như hàng đang bán hoặc sẽ bán trên thị trường và nó thường có khối lượng nhỏ hơn so với khối lượng thông thường của sản phẩm. Hình thức khuyến mại này có ý nghĩa là thương nhân tạo điều kiện cho khách hàng được sử dụng sản phẩm miễn phí và phải chính là sản phẩm nằm trong chiến dịch xúc tiến thương mại của thương nhân. Đây có thể xem là cách quảng cáo tốt, gây ấn tượng rất mạnh đối với khách hàng: dùng sản phẩm để quảng cáo cho chính sản phẩm đó. Việc đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử là cách thức khuyến mại đem lại hiệu quả cao, nhưng cũng là hình thức tốn kém nhất, đòi hỏi thương nhân phải có một tiềm năng kinh tế lớn và sử dụng phương tiện này một cách hiệu quả. Để áp dụng đạt kết quả cao cần lưu ý một số điều kiện nhất định: Sản phẩm mẫu phải làm cho công chúng yêu thích; Sản phẩm đó phải có lợi ích, công dụng không thể thể hiện hết qua các hình thức xúc tiến thương mại khác; Phát tặng hàng mẫu đúng đối tượng khách hàng; Hàng mẫu, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doah hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường; Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào. Trên thực tế hình thức khuyến mại này thường được áp dụng đối với những hàng hóa, dịch vụ lần đầu được đưa ra thị trường hoặc trong một chiến dịch thâm nhập vào một thị trường mới mà ở đó người tiêu dùng chưa biết tới chúng hoặc tiêu thụ rất ít. Cách thức tiến hành khuyến mại đưa hàng hóa mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu đê khách hàng dùng thử không phải trả tiền chưa được quy định rõ ràng trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 nhưng thực tế các thương nhân thường sử dụng một số cách thức sau: Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu theo yêu cầu của khách hàng; Phát hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu tại nơi bán hàng, nơi cung cấp dịch vụ; Tổ chức phân phát đến tận tay khách hàng;… 2. Hình thức tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền. Thương nhân được phép tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền để thực hiện mục tiêu xúc tiến thương mại. Theo cách này, thương nhân đã dùng quà tặng tặng kèm theo hàng hóa để thu hút, lôi kéo khách hàng đến với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình. Đối tượng hướng tới là những khách hàng có hành vi mua sắm hàng hóa hoặc dịch vụ của thương nhân đó. Quà tặng có thể đính kèm, có thể được gói chung hoặc kèm theo bên ngoài gói hàng chính. Ví dụ như khi mua dầu gội đầu sẽ được tặng thêm dầu xả hoặc hay khi mua cafe sẽ được tặng thêm một chiếc thìa chuyên dùng… Tuy nhiên không phải bất kì loại hàng hóa nào cũng được sử dụng để đem ra làm quà khuyến mại. Những loại hàng hóa đó nhất thiết phải không trái pháp luật: “Hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp”. Và các thương nhân phải chịu trách nhiệm về chất lượng của số hàng hóa này, thông tin sử dụng và không thu tiền đối với số hàng hóa này. Không chỉ vậy mà còn phải có khả năng “lôi kéo” được khách hàng và phải hợp lý, có óc sáng tạo cùng đúng đắn. Việc pháp luật cho phép sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác không chỉ thúc đẩy hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ mà còn gián tiếp giúp quảng cáo hàng hóa, dịch vụ cho các thương nhân khác. Qua đó, góp phần khuyến khích sự liên kết, xúc tiến thương mại, nhằm khai thác tối đa lợi ích của các thương nhân. 3. Hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trước đó (hay còn gọi là khuyến mại bằng cách giảm giá). Đây là hình thức bán hàng giảm giá. Giảm giá là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó được áp dụng trong thời gian khuyến mại mà thương nhân đã đăng kí hoặc thông báo. Ví dụ như điện thoại Avio 2005 giảm giá 18% từ 860.000 đồng xuống 699.000 đồng trong thời gian khuyến mại… Có thể thấy hình thực khuyến mãi này rất hiệu quả trong việc tác động tới tâm lí khách hàng. Nó có sức hấp dẫn với những người tiêu dùng mới và lôi kéo được những người tiêu dùng cũ. Từ đó, sức mua đối với sản phẩm tăng lên. Tuy nhiên không phải nhà nước thả lỏng cho thương nhân toàn quyền giảm giá. Để làm cho hình thúc khuyến mãi này không bị lạm dụng thì pháp luật có những quy định: trong trường hợp khuyến mại bằng hình thức giảm giá thì mực giảm giá trong thời gian khuyến mại của bất cứ thời điểm nào không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Đối với hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước quản lí giá thì việc khuyến mại này được thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với tình huống này, các thương nhân cũng cần phải lưu ý về tổng thời gian tiến hành chương trình khuyến mại khong vượt quá 90 ngày trong một năm, một chương trình khuyến mại cũng không được vượt quá 45 ngày. Đặc biệt, pháp luật cấm các hành vi lợi dụng hình thức này để bán phá giá nhằm cạnh tranh không lành mạnh. 4. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định. Phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ kèm theo hàng hóa được bán, dịch vụ được cung ứng là phiếu để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của chính thương nhân đó hoặc để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của thương nhân, tổ chức khác. Theo các chương trình này thì khách hàng có thể được hưởng lợi ích nhất định theo những phương thức khác nhau. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hay có mệnh giá nhất dịnh để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Ví dụ như Toshiba có đợt khuyến mại đến ngày 16/1/2011, mua bất kì laptop Toshiba sẽ được tặng phiếu mua hàng trị giá từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Với phiếu mua hàng này, người sở hữu sẽ có thể thỏa sức mua sắm tại hệ thống siêu thị Big-C và CoopMart. Giá trị tối đa của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ được tặng kèm theo một đơn vị hàng hóa được bán, dịch vụ được cung ứng trong thời gian khuyến mại phải tuân thủ quy định hạn mức tối đa về giá trị vật chất dùng để khuyến mại quy định tại Điều 5 Nghị định này. Nội dung của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ phải bao gồm các thông tin liên quan được quy định tại Điều 97 Luật Thương mại. 5. Hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố. Đây là hình thức mà thương nhân có thể tổ chức cuộc thi tìm hiểu về hàng hóa, dịch vụ mình đang hoặc sẽ cung cấp. Mục đích là nâng cao hiểu biết của người tiêu dùng về sản phẩm, đồng thời giúp các cơ sở sản xuất và phân phối đánh giá đúng nhu cầu, mức độ quan tâm của khách hàng đối với hàng hóa, dịch vụ của mình, từ đó đưa ra được những chiến lược kinh doanh cho phù hợp. Với điều kiện này, phiếu dự thi có thể mang lại giải thưởng hoặc mang lại lợi ích cho khách hàng. Do đó, nó sẽ tác dộng đến tâm lý hiếu kỳ của người tiêu dùng, kích thích họ mau hàng hóa, sử dụng dịch vụ do thương nhân cung cấp. Khi thực hiện chương trình khuyến mại theo hình thức này, thương nhân thực hiện khuyến mại phải tổ chức thi công khai, phải trao giải thưởng theo thể lệ, giải thưởng mà mình đã công bố và có sự chứng kiến của đại diện khách hàng. Đồng thời phải thông báo cho sở thương mại nơi tổ chức thi, mở thưởng biết. 6. Hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi. Đây là hình thức khuyến mại mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham dự theo thể lệ và giải thưởng mà thương nhân đã công bố. Các sự kiện này có thể được tổ chức gắn liền hoặc tách rời với việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của khách hàng. Chẳng hạn như: chương trình cào trúng thưởng, bật nắp chai trúng thưởng, bốc thăm may mắn. Đây là cách tạo sức hấp dẫn đối với khách hàng, kích thích tâm lý muốn thử vận may của người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý chặt chẽ từ phía Nhà nước thì rất có thể dẫn đến sự lừa dối khách hàng để trục lợi. Hiện nay, pháp luật quy định: việc mở thưởng chương trình khuyến mại mang tính may rủi phải được tổ chức công khai, theo thể lệ đã công bố, có sự chứng kiến của khách hàng. Trong trường hợp giá trị giải thưởng từ 100 triệu đồng trở nên, thương nhân phải thông báo cho Sở Thương mại nơi tổ chức khuyến mại. Chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự thưởng thì còn phải tuân thủ một số quy định sau: - Vé số dự thưởng phải có hình thức khác với sổ số do Nhà nước độc quyền phát hành và không được sử dụng kết quả sổ số của nhà nước để làm kết quả xác định trúng thưởng. - Vé số dự thưởng phải in đủ các nội dung về số lượng vé phát hành, số lượng giải thưởng, giá trị từng loại giải thưởng, địa điểm phát thưởng, thời gian, địa điểm mở thưởng và các nội dung khác theo quy định của Luật thương mại. - Việc mở thưởng chỉ áp dụng cho các vé số đã được phát hành. Tổng thời gian thực hiện khuyến mại theo hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi đối với một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ không được quá 180 ngày trong 1 năm, một chương trình khuyến mại không được vượt quá 90 ngày. 7. Tổ chức chương trình khách hàng thương xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc giá trị mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các hình thức khác. Đây là hình thức khuyến mại gắn liền với việc mua hàng hóa như: mua 2 tặng 1, phát hành thẻ cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ… 8. Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại. Đây là hình thức khuyến mại nhằm quảng bá hình ảnh cho công ti, với mục đích giới thiệu sản phẩm, tuyên truyền nhằm mang lại niềm tin tưởng cho khách hàng. Đó có thể là lợi ích phi vật chất mà thương nhân khuyến mại dành cho khách hàng, cũng có thể nhằm hướng tới khách hàng mục tiêu của thương nhân. 3.Thực tiễn áp dụng luật khuyến mại. Như đã phân tích ở trên, khuyến mại có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, sự lựa chọn của công chúng. Khuyến mại nếu được sử dụng đúng đắn thì sẽ đem lại những hiệu quả và lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội; ngược lại nó có thể gây ra những tác động tiêu cực tới chính các đối tượng này. Để khuyến mại phát huy mặt tích cực, pháp luật cũng cần có những quy định phù hợp. Hiện nay, hoạt động khuyến mại được điều chỉnh chủ yếu bởi: Luật Thương mại năm 2005; nghị định số 37/2006/NĐ-CP; luật cạnh tranh năm 2004; pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2001. Những căn cứ pháp lí này không những thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn bảo vệ được những lợi ích chân chính trong xã hội. Trong những năm gần đây, có rất nhiều hoạt động khuyến mại được triển khai đem lại lợi ích cho việc phát triển kinh tế. Số lượng các chương trình khuyến mại cũng tăng rất nhanh, đây cũng là nhân tố khiến cho tình trạng gian lận phát triển. Nếu như năm 1998 chỉ có 71 chương trình khuyến mại. với số tiền khiêm tốn vài chục tỉ đồng thì sáu tháng đầu năm 2005 đã có tới 540 chương trình với số tiền khuyến mại lên tới 271 tỉ đồng. Mấy năm qua, một số chương trình khuyến mại khá độc đáo được các thương nhân tung ra nhằm thu hút khách hàng, chẳng hạn, chương trình khuyến mại tặng miễn phí nhiên liệu cho khoảng 2000km trong điều kiện vận hành chuẩn của Ford Việt Nam trong năm 2005 đã đánh trúng vào tâm lý e dè của khách hàng trong lúc giá nhiên liệu tăng cao. Chương trình khuyến mại rầm rộ cuối năm 2005 của hãng điện thoại di động Viettel với tiêu đề “đợt khuyến mại lớn nhất trong lịch sử ngành thông tin di động” và với câu giới thiệu “gọi đến cháy pin mà không mất tiền đối với cuộc gọi nội mạng 098 đầu tiên trong ngày”. Nội dung khuyến mại của Viettel là: miễn 100% phí hòa mạng trả sau (cước là 179.000 đồng), nhân đôi tài khoản trả trước (mua thẻ 100.000 đồng được cộng thêm 100.000 thành 200.000 đồng trong tài khoản) và mỗi ngày miễn phí một êuộc gọi nội mạng đầu tiên cho khách hàng mà không giới hạn thời gian gọi. Theo ước tính trong thời gian khuyến mại, từ ngày 20 tháng 9 đến ngày 03 tháng 11, Viettel sẽ miễn phí tổng cộng khoảng 50 triệu cuộc gọi nội mạng. Qua đó Viettel mobile dự định thu hút khoảng trên 300.000 khách hàng hòa mạng mới trong thời gian bốn mươi lăm ngày khuyến mại. Sau khi chương trình khuyến mại rầm rộ do Viettel tung ra, cơ quan chức năng đã phải vào cuộc. Theo ý kiến của Phó cục trưởng cục xúc tiến thương mại (Bộ thương mại) ông Đỗ Thắng Hải thì theo Luật Thương mại hiện hành, chỉ cần một sản phẩm khuyến mại trị giá trên 50%giá bán đã là vi phạm. Còn theo ý kiến của cục phó Cục quản lí cạnh tranh (Bộ thương mại) Trần Anh Sơn thì cho rằng việc tặng 100% cước hòa mạng “nếu nói cạnh tranh không lành mạnh về giá thì chỉ áp dụng cho những doanh nghiệp có thị phần chi phối trên 30%, trong khi đó Viettel chỉ đang chiếm 10%”. Theo quy định của pháp luật hiện hành, giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại ngay trước thời gian khuyến mại, kể cả trường hợp “tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền” được hiểu là tặng toàn bộ hàng hóa, dịch vụ đó hay là một phần (không vượt quá 50% giá của hàng hóa, dịch vụ đó). Thiết nghĩ, vấn đề xác định giá trị hàng hóa đối với ngành kinh tế - hàng hóa thì đã rõ, nhưng đối với ngành kinh tế - dịch vụ như viễn thông thì sao? Phải chăng các quy định này còn đang được bỏ ngõ. Thực tế, có thể áp dụng với dịch vụ viễn thông đơn vị để tính cước dịch vụ là cước đầu nối hòa mạng hay cước cho một block tín cước…và như vậy khi áp dụng trong thời gian khuyến mại thì phần giá cước khuyến mại cho khách hàng không được vượt quá 50% giá cước của đơn vị dịch vụ đó. Tuy nhiên, vấn đề này cũng cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện. Về các hình thức khuyến mại, pháp luật hiện hành đã quy định các hình thức khuyến mại được phép và các hành vi bị cấm khá rõ ràng. Nhưng thực tế, việc xác định ranh giới giữa khuyến mại hợp pháp và bất hợp pháp còn gặp nhiều khó khăn. Theo báo Pháp luật Việt Nam – chuyên đề số 2 (tháng 01, năm 2007) tại trang 05 đã đưa ra trường hợp thực tế là người ta có thể nhầm lẫn giữa hình thức (hợp pháp) giảm giá 50% trong thời gian khuyến mại với hình thức “mua một tặng một”(không thuộc trường hợp được quy định cụ thể), hay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docth432417ng m7841i nhm 1.doc
  • doclon thuong mai 1.doc
  • docDs Hk.doc
Luận văn liên quan