Chính trị không chỉ là một tiểu hệ thống thuộc kiến trúc thượng tầng xã
hội, có tác động ảnh hưởng tới các yếu tố quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ
tầng xã hội mà quan trọng còn là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng
phái và các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi bộ phận của chính trị
lại có những chức năng riêng và đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự
liên kết đó tạo thành một cơ chế hoạt động nhịp nhàng, giúp cho thống trị đạt
được mục tiêu của mình.
Trong đó, hệ thống chính trị là công cụ, là phương tiện và là phương thức
tổ chức thực tiễn quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. H ệ thống chính trị
giúp bảo vệ và đem lại lợi ích cho giai cấp thống trị, giúp giai cấp thống trị duy
trì trật tự an ninh chính trị, đ ảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, nó còn
có vai trò to lớn trong việc quản lý các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội
như: kinh tế, văn hoá, quốc phòng, ngoại giao
Hệ thống chính trị có vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia. Một hệ
thống chính trị có kết cấu hợp lý và các thành phần trong đó có mối quan hệ
chặt chẽ sẽ giúp mỗi quốc gia phát triển đi lên. Ngược lại hệ thống chính trị
không ổn định sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó.
Hơn nữa, ngành Khoa học Quản lý không chỉ yêu cầu người học cần
trang bị những kiến thức vững chắc về các lĩnh vực chuyên môn mà còn đòi hỏi
có những hiểu biết chung về chính trị - xã hội, trong đó có hệ thống chính trị để
sau khi tốt nghiệp có thể áp dụng những kiến thức đó vào công việc trong tương
lai.
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10563 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu hệ thống chính trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
s
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA VĂN – XÃ HỘI
BỘ MÔN KHQL
**********
TIỂU LUẬN
Đề tài:
TÌM HIỂU HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Giáo viên hướng dẫn: GV. Bùi Trọng Tài
Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Thái Nguyên: 02/2012
Nhóm 4
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính trị không chỉ là một tiểu hệ thống thuộc kiến trúc thượng tầng xã
hội, có tác động ảnh hưởng tới các yếu tố quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ
tầng xã hội mà quan trọng còn là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng
phái và các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi bộ phận của chính trị
lại có những chức năng riêng và đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự
liên kết đó tạo thành một cơ chế hoạt động nhịp nhàng, giúp cho thống trị đạt
được mục tiêu của mình.
Trong đó, hệ thống chính trị là công cụ, là phương tiện và là phương thức
tổ chức thực tiễn quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Hệ thống chính trị
giúp bảo vệ và đem lại lợi ích cho giai cấp thống trị, giúp giai cấp thống trị duy
trì trật tự an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, nó còn
có vai trò to lớn trong việc quản lý các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội
như: kinh tế, văn hoá, quốc phòng, ngoại giao…
Hệ thống chính trị có vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia. Một hệ
thống chính trị có kết cấu hợp lý và các thành phần trong đó có mối quan hệ
chặt chẽ sẽ giúp mỗi quốc gia phát triển đi lên. Ngược lại hệ thống chính trị
không ổn định sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó.
Hơn nữa, ngành Khoa học Quản lý không chỉ yêu cầu người học cần
trang bị những kiến thức vững chắc về các lĩnh vực chuyên môn mà còn đòi hỏi
có những hiểu biết chung về chính trị - xã hội, trong đó có hệ thống chính trị để
sau khi tốt nghiệp có thể áp dụng những kiến thức đó vào công việc trong tương
lai.
Xuất phát từ những lý do trên nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về hệ
thống chính trị” làm hướng nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhóm 4
3
Đề tài tập trung nghiên cứu về hệ thống chính trị, mô hình hệ thống chính
trị và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự đổi mới
không ngừng của thế giới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, việc
nghiên cứu đề tài giúp chúng em củng cố thêm kiến thức về bài học.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp duy vật biện chứng
Chủ yếu dự vào quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Phép duy vật biện chứng góp phần phát hiện mâu thuẫn và động lực của
sự phát triển chính trị xã hội. Giúp giải quyết một cách khoa học mối quan hệ
giữa các mục tiêu chính trị và phương tiện thực hiện mục tiêu đó.
3.2 Phương pháp duy vật lịch sử
Nghiên cứu các hiện tượng, sự kiện chính trị thông qua việc nghiên cứu các quá
trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa của hiện tượng, từ đó làm logic khách
quan nội tại phản ánh bản chất và quy luật vận động của chính trị trong đời sống
xã hội hiện thực. Việc sử dụng đúng đắn phương pháp lịch sử cho phép khắc
phục chủ quan duy ý chí trong nghiên cứu hệ thống chính trị.
3.3 Phương pháp mô hình hóa
Phương pháp này giúp ta có thể mô hình hoá cơ chế nào đó của hệ thống chính
trị như các phần tử của hệ thống: Nhà nước, cơ quan nhà nước…và sự tác động
qua lại với các hệ thống chính trị khác.
3.4 Phương pháp so sánh
Cho phép ta nắm bắt được đối tượng nghiên cứu qua những nét tương đồng và
khác biệt với đối tượng so sánh.
3.5 Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Cho phép ta tổng hợp những khía cạnh riêng lẻ, khác nhau và lặp đi lặp lại của
hệ thống chính trị. Từ đó làm cơ sở phân tích các diễn biến đời sống chính trị và
đưa ra được những nhận định chính xác.
Nhóm 4
4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH TRỊ
1.1. Chính trị
1.1.1. Các quan niệm trước Mác về chính trị
*Thời kỳ cổ đại:
Ở Phương Tây có các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về chính trị:
Hê- rô- đốt: Mệnh danh là người “cha của chính trị học” . Ông khẳng định
chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này.
Platon: Theo ông chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của người
anh hùng và sự thông minh. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức
mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.
Aristotle :Trong cuốn Chính trị của mình, ông đã quả quyết rằng về bản chất,
con người là một động vật chính trị. Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự
nhiên, là hình thức giao tiếp cao nhất của con người, con người là động vật
chính trị, quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Ở phương Đông, Ở Trung Quốc thời kỳ “ bách gia chư tử” xuất hiện nhiều nhà
tư tưởng kiệt xuất, nổi bật là các quan niệm của Khổng Tử, Hàn Phi Tử, Lão Tử
. . .
Khổng Tử là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến
học thuyết chính trị. Căn bản trong học thuyết của ông là quân tử. Chính trị là
công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh.
Hàn Phi Tử: Quan niệm của ông là để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết
phải xây dựng và ban hành pháp luật.
Lão Tử: Với quan điểm “vô vi nhi trị” không làm gì mà mọi người tự thuần
phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị
nước.
Nhóm 4
5
*Thời kỳ đêm trường trung cổ:
Các nhà thần học và chủ nghĩa duy tâm như Tômat Đa- Canh,..cho rằng “chính
trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao của thượng đế”.
*Thời kỳ các học thuyết và tư tưởng tư sản về chính trị:
Chính trị được quan niệm là công việc của những “ công dân” có tài sản. Nổi
tiếng với các học thuyết như thuyết “ tam quyền phân lập, khế ước xã hội”.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Chính trị
Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì
lợi ích giai cấp.
Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự
tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình
thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể
không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh
hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật.
1.1.3. Khái niệm chính trị
Từ đây, chúng ta có thể rút ra kết luận khái quát về chính trị:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng
như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng
quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước
và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị,
các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đương lối và những
mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1.2 Kết cấu của chính trị
1.2.1. Hệ tư tưởng chính trị
Nhóm 4
6
Là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về
giành và giữ quyền lực nhà nước; xác định chế độ chính trị; hình thức tổ chức
nhà nước và quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác.
1.2.2.Thể chế chính trị
Là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ
… nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác là những dạng
thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính
trị hay hệ thống chính trị.
1.2.3. Hệ thống chính trị
Là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa nhận
bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, nhà nước và các tổ chức chính trị
- xã hội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau cùng liên kết nhằm thực
hiện mục tiêu chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
1.2.4. Quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên chính trị
Hệ thống chính trị là hạt nhân “tinh thần” là “linh hồn” của thể chế và hệ
thống là cái đi đầu, cái tiên phong.
Thể chế chính trị là sự cụ thể hóa của tư tưởng chính trị.
Hệ thống chính trị là phần xác, là hình thức tồn tại của tư tưởng chính trị.
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
2.1. Các quan điểm về hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một trong những khái niệm rộng lớn, cơ bản và bao
trùm nhất trong các lý thuyết chính trị học. Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa
hệ thống chính trị. Phổ biến nhất hiện nay là cách tiếp cận dựa trên cấu trúc,
hình thức tổ chức, trong đó chú trọng xem xét các thành tố cấu thành của hệ
thống chính trị – hệ thống nhà nước, đảng phái, các tổ chức và phong trào chính
trị - xã hội. Cách tiếp cận theo chức năng và quan hệ chính trị xem xét các quan
hệ chính trị, hoạt động chính trị của các thành tố trong hệ thống chính trị và
Nhóm 4
7
giữa hệ thống chính trị với môi trường xã hội xung quanh. Theo cách này người
ta còn phân tích cả những quan điểm, học thuyết, tư tưởng, nhận thức chính trị...
– tức là tất cả những yếu tố có ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị. Trong đó, có một số quan niệm tiêu biểu như:
Hệ thống chính trị là tổng thể những tổ chức quyền lực chính trị được xã
hội thừa nhận (Từ điển bách khoa Việt Nam).
Với khái niệm này nhấn mạnh đến chức năng của hệ thống chính trị - là việc
thực thi quyền lực chính trị. Tuy nhiên, khái niệm không lột tả được hêt nội hàm
khái niệm hệ thống chính trị , đồng thời không chỉ được mục tiêu và bản chất
của quá trình hình thành hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chê độ đương thời phù
hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Khái niệm nêu trên đã có hướng liệt kê đúng đắn các yếu tố cấu thành của hệ
thống chính trị tuy nhiên chưa nêu được khía cạnh là thiết chế quyền lực của hệ
thống chính trị.
Cách tiếp cận theo hình thái kinh tế - xã hội: Hệ thống chính trị là một bộ
phận của kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cách nhìn nhận trên đều có những mặt mạnh và điểm yếu riêng. Tùy
theo từng đối tượng nghiên cứu cụ thể mà lựa chọn cách này hay cách khác cho
phù hợp. Một định nghĩa đầy đủ về hệ thống chính trị cần phải đáp ứng được ba
đòi hỏi cơ bản: cơ cấu tổ chức, chức năng của các thành tố cấu thành; các quan
hệ chính trị trong xã hội; tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị. Từ những cơ
sở trên có thể đưa ra một cách hiểu hệ thống chính trị như sau:
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã
hội thừa nhân bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau nhằm
Nhóm 4
8
liên kết nhằm thực hiện mục tiêu chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị.
2.2 Kết cấu hệ thống chính trị
Bất cứ một chế độ chính trị nào cũng duy trì tồn tại một hệ thống chính
trị. Hệ thống đó là tập hợp các thiết chế thực thi quyền lực chính trị và bao giờ
cũng có kết cấu của nó. Kết cấu của hệ thống chính trị hàm chỉ các tổ chức cấu
thành hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa các tổ chức đó.
Kết cấu của hệ thống chính trị bao gồm: Các tổ chức chính trị như Đảng chính
trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận dân tộc thống nhất,
các tổ chức đoàn thể quần chúng.
2.2.1 Đảng chính trị
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có Đảng chính
trị. Vai trò của Đảng chính trị là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị.
Đảng tập hợp, lôi cuốn và lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng
lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất định.
Thông qua các cương lĩnh, điều lệ, chủ trương, nghị quyết…Đảng chính trị chỉ
ra đường lối, phương hướng để nhà nước và xã hội hướng tới.
Theo các nhà kinh điển Mác-xít : Sự tồn tại của một Đảng chính trị gắn
với cuộc đấu tranh giành chính quyền, thỏa mãn những lợi ích của giai cấp, đạt
được mục tiêu cuối cùng là trở thành Đảng cầm quyền, và đương nhiên, thành
lập Chính phủ để thể hiện ý chí thống trị xã hội của giai cấp mình. Nhiệm vụ
chủ yếu của các Đảng chính trị là trở thành Đảng cầm quyền. Muốn như thế thì
trước hết Đảng chính trị phải có vai trò tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, trong
đó hệ thống hóa những khuynh hướng, lập trường chính trị khác nhau, thậm chí
mâu thuẫn nhau thành một chương trình hành động cụ thể, một chính sách nhất
định, và tiến hành giành chính quyền bằng nhiều biện pháp. Bên cạnh đó, Đảng
phải tổ chức giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phổ biến tư tưởng của Đảng mình
cho quần chúng.
Nhóm 4
9
Đối với đảng chính trị tiến bộ là đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân
dân lao động thì chủ trương, đường lối chính sách phát triển đất nước của nó
phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, nên vai trò thúc đẩy xã hội
tiến lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị phản tiến bộ thì vai trò của nó
đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.
2.2.2 Nhà nước
Nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt, là công cụ do đảng chính trị
và giai cấp thống trị lập ra nhằm duy trì sự thống trị và đảm bảo quyền lợi của
giai cấp đó, đồng thời chấn áp tầng lớp, giai cấp khác.
Về hình thức tuỳ vào từng quan hệ xã hội khác nhau trong lịch sử mà tồn tại các
kiểu và các hình thức Nhà nước khác nhau. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, có bốn
hình thức hình thành Nhà nước bao gồm:
Phương thức Aten: Nhà nước Aten ra đời là kết quả của vận động của những
nguyên nhân nội tại trong xã hội. Do sự chiếm hữu tài sản và sự phân hoá giai
cấp trong xã hội, tổ chức thị tộc không còn thích hợp, cần thay thế bằng bộ máy
quản lý mới nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ lưọi ích của những người giàu có. Vì
thế sự xuất hiện Nhà nước có tính thuần tuý và cổ điển nhất.
Phương thức Roma cổ đại: Nhà nước Rôma xuất hiện là do sự thúc đẩy của
cuộc đấu tranh giữa những người bình dân sống ngoài các thị tộc Rôma chống
lại giới quý tộc của thị tộc Rôma.
Phương thức Giéc – manh: Do nhu cầu phải thiết lập sự cai trị đối với vùng đất
La Mã sau chiến thắng của người Giéc –manh đối với đế chế La Mã cổ đại mà
nhà nước xuất hiện chứ không phải do yêu cầu đấu tranh giai cấp trong xã hội
Giéc – manh. Sau khi nhà nước Giéc – manh ra đời và bước vào củng cố, hoàn
thiện bộ máy nhà nước, sự phân hoá giai cấp trong xã hội Giéc – manh mới rõ
rệt.
Phương thức Phương Đông cổ đại: Do nhu cầu tự vệ và yêu cầu sản xuất như
khai khẩn đất đai, trị thuỷ, chống thiên tai đòi hỏi con người phải tập hợp nhau
lại trong một cộng đồng có sự liên hệ cao hơn trong gia đình và thị tộc, với một
Nhóm 4
10
bộ máy có quyền lực tập trung, thống nhất hơn để điều hành và quản lý các
công việc chung của cộng đồng đó là nhà nước. Nhà nước xuất hiện không phải
do đòi hỏi bức thiết của đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Ở xã hội phong kiến, quyền lực tập trung mạnh mẽ vào một vị vua được coi là
người đứng đầu nắm toàn bộ quyền hành điều khiền nhà nước, tiếp đến là hệ
thống quan lại, quý tộc từ trung ương đến địa phương.
Sang chế độ Tư bản chủ nghĩa Nhà nước được tổ chức theo hình thức tam
quyền phân lập với nhiều hình thức khác nhau. Chính thể quân chủ lập hiến,
chính thể cộng hoà tổng thống, chính thể cộng hoà đại nghị. Đặc điểm chung
của Nhà nước tư sản là sự phân chia quyền lực Nhà nước thành các quyền lập
pháp hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập, đối trọng, kiềm chế và kiểm
soát lẫn nhau.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng quyền lực Nhà nước là
thống nhất thuộc về nhân dân nhưng có sự phân chia với nhau trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, là trụ cột của hệ thống chính trị.
Thông qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước quản lý toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội: Quyền lập pháp giúp Nhà nước ban hành pháp luật, quyền hành
pháp giúp nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất, quản lý
đời sống xã hội; quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát và xét xử các hành vi
phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế, chính trị của quốc gia, dân tộc…Hoạt
động của Nhà nước chính là trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị.
2.2.3 Các tổ chức liên minh, liên kết đại diện cho các lực lượng khác nhau
trong xã hội
Đó là các tổ chức đại đoàn kết dân tộc, các tổ chức đại diện cho quyền và
lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các tổ chức này góp
phần tham gia vào các hoạt động của hệ thống chíng trị trong việc tạo ra khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ lợi ích cho các tầng lớp xã hội trước giai cấp
thống trị. Một mặt các tổ chức này đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị, góp
Nhóm 4
11
phần xây dựng và hoàn thiên hệ thống này; mặt khác, trong nhiều trường hợp
chính các tổ chức này lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống chính trị hiện thời. Đó
là khi một giai cấp tiến bộ trong lịch sử ra đời, có tổ chức tiên phong đại diện
xong chưa nắm được quyền lực chính trị. Khi đó thông qua con đường bao lực
cách mạng, nó sẽ lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu cũng
tức là lật đổ hệ thống chính trị hiện thời để xây dựng nên một hệ thống chính trị
mới mang bản chất giai cấp của chính nó.
2.3 Chức năng của hệ thống chính trị
Chức năng duy trì chế độ thống trị của một giai cấp vì lợi ích giai cấp
Bất cứ một hệ thống chính trị nào cũng mang bản chất của giai cấp thống trị lập
ra hệ thống đó nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của giai cấp
cầm quyền.
Chức năng tổ chức và thực thi quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị là công cụ, phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng nhằm
mục đích thống trị của mình. Muốn sử dụng quyền lực đó, giai cấp thống trị
phải lập ra các thiết chế sử dụng đó là hệ thống chính trị.
Chức năng duy trì ổn định chính trị - điều hành nền sản xuất
Thông qua hệ thống các cơ quan an ninh, đồng thời tổ chức và phối hợp với hệ
thống quân sự từ trung ương đến địa phương giúp giai cấp thống trị duy trì an
ninh chính trị, đảm bảo trật tự và an toàn xã hội. Từ đó, hệ thống chính trị thực
hiện chức năng điều khiển nền sản xuất xã hội thông qua quan hệ sản xuất.
Chức năng quản lý xã hội
Chức năng này được thiết lập trên các mặt của đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…thông qua các thiết chế hành
pháp.
2.4 Giới thiệu một số mô hình chính trị trên thế giới
2.4.1 Hệ thống chính trị Mỹ
Nhóm 4
12
* Đảng chính trị
Trong nền chính trị Mỹ hiện nay có hàng trăm đảng phái chính trị đang
tồn tại và hoạt động, nhưng trên thực tế chỉ có hai đảng lớn là Đảng dân chủ và
Đảng cộng hòa thay nhau nắm quyền ở hầu như tất cả các cấp từ liên bang đến
địa phương. Các đảng nhỏ chỉ có thể tham dự vào đời sống chính trị một cách
hạn chế, có thể thắng ở một vài cấp chính quyền địa phương nhưng không thể
làm thay đổi nền tảng chính trị ở Mỹ.
Xét về cơ cấu tổ chức hoạt động, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa khác
với các chính đảng ở Phương tây nói riêng và trên thế giới nói chung. Hai đảng
này thực chất là những đảng bầu cử, không có cương lĩnh chính trị cố định và
nhất quán, ít có cam kết công khai về lý tưởng chính trị - tư tưởng. Đảng có tổ
chức lỏng lẻo, quyền lực phân tán không có nội quy, không có kỷ luật đảng,
không có chế định đảng viên. Đảng và đảng viên không có mối liên hệ chặt chẽ
về mặt tổ chức. Ai bầu cho Đảng nào thì là đảng viên của Đảng đó.
Việc người dân lựa chọn bầu Tổng thống ở Mỹ chính là việc nhân dân lựa
chọn một Đảng chính trị làm đại diện cho họ. Đảng chính trị trong Nhà nước Tư
bản nói chung và trong Nhà nước Mỹ nói riêng phải có nhiệm vụ:
- Lãnh đạo, điều hành chính quyền Nhà nước, tổ chức giai cấp và các lực lượng
chính trị để đấu tranh chính trị.
- Bảo vệ lợi ích của đất nước, đảm bảo quyền của công dân và giáo dụ