Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nước CHDCND Lào đang trên đà phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới .Tuy nhiên một trong những thách thức không nhỏ đối với Lào đó là có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Lào là một trong 20 nước kém phát triển trên thế giới, người dân phần lớn cuộc sống gắn bó với nghề nông nghiệp. Công nghiệp kém phát triển kéo theo trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ phát triển năng lực thấp, nguồn lực con người có trình độ còn thiếu và yếu. Để khắc phục những khó khăn hiện tại, thay đổi bộ mặt cuộc sống, CHDCND Lào cần hết sức nỗ lực tìm những hướng đi phù hợp với tình hình kinh tế của mình.
Vì vậy trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam - quốc gia có mối quan hệ lịch sử gắn bó tốt đẹp, nước láng giềng có sự tương đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quá trình hoàn thiện pháp luật của Việt Nam luôn là những kinh nghiệm quý đối với CHDCND Lào.
Việt Nam đang thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại với nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là thành viên mới nhất (thứ 150) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư và kinh doanh nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện trên lộ trình cải cách, điều chỉnh kịp thời cơ chế, chính sách, luật lệ của nước mình cho phù hợp “luật chơi” quốc tế, chú trọng việc cải thiện môi trường đầu tư. nhằm thu hút vốn đầu tư, công nghệ và khoa học kỹ thuật. Vì vậy việc tìm hiểu pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật đầu tư nói riêng là việc làm hết sức ý nghĩa đối với những sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, hơn nữa còn góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đầu tư của Lào qua cái nhìn so sánh, qua những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ chặng đường phát triển pháp luật đầu tư ở Việt Nam.
Với cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào”.
61 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2043 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nước CHDCND Lào đang trên đà phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới .Tuy nhiên một trong những thách thức không nhỏ đối với Lào đó là có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Lào là một trong 20 nước kém phát triển trên thế giới, người dân phần lớn cuộc sống gắn bó với nghề nông nghiệp. Công nghiệp kém phát triển kéo theo trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ phát triển năng lực thấp, nguồn lực con người có trình độ còn thiếu và yếu.... Để khắc phục những khó khăn hiện tại, thay đổi bộ mặt cuộc sống, CHDCND Lào cần hết sức nỗ lực tìm những hướng đi phù hợp với tình hình kinh tế của mình.
Vì vậy trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Lào chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam - quốc gia có mối quan hệ lịch sử gắn bó tốt đẹp, nước láng giềng có sự tương đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá... Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quá trình hoàn thiện pháp luật của Việt Nam luôn là những kinh nghiệm quý đối với CHDCND Lào.
Việt Nam đang thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại với nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là thành viên mới nhất (thứ 150) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư và kinh doanh nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện trên lộ trình cải cách, điều chỉnh kịp thời cơ chế, chính sách, luật lệ của nước mình cho phù hợp “luật chơi” quốc tế, chú trọng việc cải thiện môi trường đầu tư... nhằm thu hút vốn đầu tư, công nghệ và khoa học kỹ thuật. Vì vậy việc tìm hiểu pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật đầu tư nói riêng là việc làm hết sức ý nghĩa đối với những sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, hơn nữa còn góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đầu tư của Lào qua cái nhìn so sánh, qua những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ chặng đường phát triển pháp luật đầu tư ở Việt Nam.
Với cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tìm hiểu pháp luật đầu tư của Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào”.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việt Nam và Lào là những quốc gia từ trước đến nay có quan hệ rất khăng khít trên nhiều lĩnh vực.Trong bối cảnh lịch sử tương tự nhau, việc hoạch định chính sách, thể chế hoá đường lối của Đảng đi vào cuộc sống của một trong hai nước đi trước sẽ là điều kiện thuận lợi để nước kia có nhiều cơ hội tìm hiểu, học hỏi và rút ra được những bài học kinh nghiệm. Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu quá trình phát triển pháp luật đầu tư ở Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật đầu tư của Lào. Đặc biệt luận văn chú trọng tìm ra phương hướng và bài học kinh nghiệm trong thời gian tới để hoàn thiện và hệ thống hoá pháp luật đầu tư ở Lào, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này chủ yếu tập trung vào phân tích quá trình ra đời, nội dung chủ yếu các đạo Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư của Việt Nam và Lào được ban hành trong thời gian qua. Vì vậy phạm vi nghiên cứu của luận văn là rất rộng lớn , việc dịch các văn bản pháp luật của Lào sang tiếng Việt gặp không ít khó khăn về ngôn từ chuyên ngành, cho nên tác giả không tránh khỏi những thiếu sót trong khi phân tích, so sánh rất mong sự động viên và thông cảm của thầy cô và bạn bè. Những ý kiến đóng góp chân thành, những góp ý sửa chữa sẽ là động lực rất lớn để tác giả của luận văn tiếp tục hoàn thiện và phát triển vấn đề này trong những lần nghiên cứu ở cấp độ cao hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống... Trong đó phương pháp chủ yếu là so sánh, phân tích tổng hợp.
4. Những đóng góp mới và bố cục của luận văn
Luận văn phân tích thực trạng hệ thống pháp luật đầu tư ở Việt Nam và Lào. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đầu tư ở Lào.
Luận văn được thực hiện với quy trình, kết cấu, khối lượng phù hợp với các quy định chung của Nhà nước, ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục chính của luận văn bao gồm:
Chương I: Những vấn đề chung về Luật Đầu tư Việt Nam và pháp luật đầu tư Lào
Chương II: Những nội dung cơ bản trong pháp luật đầu tư Việt Nam và pháp luật đầu tư Lào – Nhìn từ góc độ so sánh
Chương III: Một số kinh nghiệm đạt được và những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đầu tư của CHDCND Lào.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VIỆT NAM
VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ LÀO
1. Khái quát về pháp luật đầu tư của Việt Nam
1.1. Pháp luật đầu tư Việt Nam trước khi ban hành Luật Đầu tư chung
Từ năm 1945, sau khi giành được chính quyền, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương “kháng chiến kiến quốc”, bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ. Nhà nước Việt Nam đã hiện thực hoá bằng việc tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên pháp luật về đầu tư thời kỳ này thể hiện tính ổn định chưa cao, chưa có văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành quy định về đầu tư
Trong thời kỳ Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, pháp luật về đầu tư không thực sự là phương tiện quan trọng nhất trong điều kiện kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Về mặt pháp lý, hoạt động đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân không được thừa nhận trong giai đoạn này.
Hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây dựng trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, với quy định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với quan điểm huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện theo hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng cho các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh.
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng VI năm 1986 về chuyển đổi hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp Nhà nước trong điều kiện mới như: Nghị định số 50/ HĐBT ban hành điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị dịnh số 27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí nghiệp... Với cơ chế thị trường, mà giai đoạn đầu là kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một yêu cầu có tính nguyên tắc căn bản là phải đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, trong đó nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định quan điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã ban hành và từng bước xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật mới về đầu tư như: Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (sửa đổi bổ sung và ban hành mới vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 (được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và sau này là Luật Doanh nghiệp năm 2005); Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 (được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003); Luật Hợp tác xã năm 1996 (đã được thay thế bởi Luật hợp tác xã năm 2003); Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994 (đã được thay thế bởi Luật sửa đổi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998); Nghị định số 52/1999 NĐ - CP ngày 08/7/1999 ban hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng... Các văn bản pháp luật này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan, đã tạo thành một hệ thống pháp luật về đầu tư với phương pháp, nội dung điều chỉnh mới, quy định các vấn đề pháp lý về đầu tư trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tự do, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh... Điều này đã góp phần không nhỏ vào việc tăng cường hiệu quả huy động vốn đầu tư trong thời gian qua.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam ở thời kỳ này là có sự phân chia thành hai lĩnh vực: Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để điều chỉnh. Cụ thể như sau:
1.1.1. Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Cùng với chủ trương huy động tối đa nguồn lực trong nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế. Trong việc tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, việc mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Điều lệ đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 là văn bản pháp lý riêng biệt đầu tiên được ban hành nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định tại điều 1 Điều lệ này, Chính phủ Việt Nam “chấp thuận đầu tư trực tiếp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng có lợi”. Điều lệ đầu tư đã tạo ra một khung pháp lý ban đầu cho hoạt động đầu tư nước ngoài, làm tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách sau này. Tuy nhiên do Điều lệ đầu tư năm 1977 đã thể chế hoá chính sách quản lý kinh tế bao cấp nên còn thiếu các quy định cụ thể cho việc thi hành như các quy định về ngân hàng, quản lý ngoại hối, đất đai, lao động, tài nguyên.... Do đó chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ, môi trường pháp lý đồng bộ, có hiệu quả cao và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài cũng như cho hoạt động đầu tư nói chung. Ngày 29/12/1987 tại kỳ họp thứ hai khoá VII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời kỳ này, đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp quan trọng để mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới nhằm “khai thác có hiệu quả tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước” để “đẩy mạnh xuất khẩu”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được soạn thảo trên nguyên tắc rút kinh nghiệm Điều lệ đầu tư năm 1977 xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Các quy định của luật đã thể hiện vai trò, vị trí, tác dụng của việc đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân. Ngay sau khi ra đời, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã có ảnh hưởng mạnh tới việc xây dựng hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế mới với nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên qua một thời gian thực hiện, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong việc thi hành cũng như bản thân nội dung luật. Cụ thể là với các đối tác trong nước Luật mới chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, hạn chế về kinh tế tư nhân. Các văn bản dưới luật chưa được ban hành kịp thời. Mặt khác, Luật ra đời vào thời điểm Việt Nam chưa có các đạo luật cơ bản về kinh tế, do đó, môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngoài nói chung còn tiềm ẩn của sự thiếu ổn định.
Nhằm khắc phục hạn chế nêu trên ngày 30/6/1990 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng “khuyến khích và tạo thêm điều kiện thuận lợi” cho các dự án đầu tư nước ngoài. Với những sửa đổi lần này, các quy định của luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn cho các đối tác trong nước được hưởng những điều kiện tương tự để mở rộng hợp tác với nước ngoài. Vấn đề về “mọi thành phần kinh tế” trong đó có kinh tế tư nhân lần đầu tiên được quy định một cách rõ nét: “Các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng bộ trưởng quy định”. Luật cũng khẳng định chính sách của Nhà nước Việt Nam nhằm đáp ứng lợi ích của các bên. Nhà nước Việt Nam không những đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư mà còn giảm thuế để bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đấu tư khi tỷ suất của họ thấp hơn so với các xí nghiệp khác trong ngành, khuyến khích các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến và đầu tư số vốn lớn vào Việt Nam, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
Đến năm 1992, sau hai năm triển khai thực hiện Luật, nhiều vấn đề pháp lý đã phát sinh, phần nào làm cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. Vì vậy để đạt được mục tiêu kinh tế – xã hội đã đặt ra Việt Nam cần phải tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Thực hiện chủ trương nêu trên, ngày 23/12/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm mở rộng cho mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư. Trong lần sửa đổi này, vấn đề tư nhân tham gia hoạt động đầu tư với nước ngoài được nêu một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có tính khả thi hơn. Bên Việt Nam là “một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế” gồm:Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp được thành lập theo luật Công ty, doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 đã bổ sung một số hình thức đầu tư nước ngoài mới, hình thức khu chế xuất và hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao. Đồng thời, Luật cũng khẳng định rằng, trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của các bên tham gia hợp tác đầu tư thì Nhà nước Việt Nam sẽ “có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”.
Năm 1996, khi Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục. Mặt khác, cùng với quá trình xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đồng bộ, từ năm 1994, một số luật mới lần lượt được ban hành, trong đó môi trường đầu tư, kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn và đi cùng với hệ thống này, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng cần được sửa đổi , bổ sung trên cơ sở quán triệt đường lối nhất quán , nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước Việt Nam: “bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996 thể hiện chủ trương của Nhà nước đối với việc cải cách các thủ tục hành chính. Luật lần này được sửa đổi theo hướng giảm bớt một số ưu đãi. Những sửa đổi này, cùng với những quy định chặt chẽ hơn của một số luật kinh tế khác đã góp phần làm giảm sút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đồng thời góp phần tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư, chặn đà giảm sút của đầu tư nước ngoài, thực hiện tốt các dự án đã được cấp phép đầu tư và thu hút thêm đầu tư mới, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngày 09/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa, bổ sung, đổi mới và hoàn thiện quy định của các luật đã ban hành, các nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật đã đem lại cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sự ổn định và thông thoáng hơn so với nhiều quy định trước đây. Các quy định này có tác dụng khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các đối tác trong nước tham gia đầu tư. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 được ban hành đã tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh, mở rộng tự chủ trong tổ chức quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; bổ sung một số ưu đãi về thuế đối với dự án đầu tư nước ngoài.
Qua gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung liên tục (từ năm 1987 – 2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam và các bộ, ban. ngành đã ban hành một số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, điều chỉnh khá toàn diện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. So với pháp luật nhiều nước khác trong khu vực, pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam được coi là khá thông thoáng, cởi mở và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, mà trực tiếp nhất là thực hiện các thoả thuận trong Hiệp định đầu tư khu vực ASEAN, Hiệp định thưong mại Việt Nam – Hoa Kỳ, pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế cần phải khắc phục. Sự chưa hoàn thiện và thiéu đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư nói riêng và của toàn bộ hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nói chung là trở ngại lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Pháp luật về đầu tư của Việt Nam đứng trước yêu cầu phải vận động theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với pháp luật đầu tư thế giới
1.1.2. Pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước
Trước khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời, chính sách về đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn cần được khuyến khích và ưu đãi đầu tư tuy đã được quy định trong một số văn bản của Nhà nước, nhưng chưa đầy đủ, còn phân tán chưa thành hệ thống chặt chẽ, đồng bộ nên chưa tạo điều kiện để nhân dân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Đồng thời, cho đến khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành , Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã ban hành dược hơn 6 năm (từ năm 1987) và đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần (vào năm 1990 và 1992) có quy định về ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, nên trong chừng mực nhất đã tạo ra tình trạng kinh doanh không bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông qua ngày 22/6/1994 là văn bản có tính pháp lý đầu tiên điều chỉnh toàn diện các quan hệ chủ yếu về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam. Văn bản này ra đời khẳng định về mặt pháp lý ở tầm văn bản có hiệu lực cao, tư tưỏng độc lập, tự chủ , tự lực, tự cường của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong phát triển kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng đối với toàn bộ quá trình phát triển, vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết định. Việc huy động vốn đầu tư trong nước không chỉ nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế mà còn làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khuyến khích đầu tư trong nước có hiệu quả cũng là gián tiếp thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra