Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời khoảng thế kỉ XVII, nó gắn liền với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện vào năm 1602 đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh, sang thế kỉ XIX công ty cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần đã ra đời từ rất lâu, nhưng ở nước ta do hoàn cảnh kinh tế xã hội mà gần đây công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần mới được quan tâm nhiều. Với nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác như: có tư cách pháp nhân, các cổ đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong kinh doanh và không hạn chế thời gian tồn tại Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu thế lớn nhất cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của công ty cổ phần dễ dàng, ưu việt hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến công ty cổ phần ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh hoặc thành lập, chuyền đổi loại hình công ty.
Để hiểu rõ hơn về những ưu thế của công ty cổ phần trong khả năng huy động vốn, em chọn đề tài “tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” để tìm hiểu.
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập cuối kì môn: luật thương mại.
Đề bài: tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.
Bài làm:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời khoảng thế kỉ XVII, nó gắn liền với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện vào năm 1602 đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh, sang thế kỉ XIX công ty cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần đã ra đời từ rất lâu, nhưng ở nước ta do hoàn cảnh kinh tế xã hội mà gần đây công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần mới được quan tâm nhiều. Với nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác như: có tư cách pháp nhân, các cổ đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong kinh doanh và không hạn chế thời gian tồn tại… Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu thế lớn nhất cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của công ty cổ phần dễ dàng, ưu việt hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến công ty cổ phần ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh hoặc thành lập, chuyền đổi loại hình công ty.
Để hiểu rõ hơn về những ưu thế của công ty cổ phần trong khả năng huy động vốn, em chọn đề tài “tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” để tìm hiểu.
Khái quát về công ty cổ phần và vấn đề huy động vốn của công ty cổ phần.
I. khái quát về công ty cổ phần.
Trong hệ thống khoa học pháp lý của các quốc gia khác nhau có nhiều cách định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu nhận biết công ty cổ phần, được quy định rõ tại khoản 1 điều 77 luật doanh nghiệp 2005 là:
“1. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa;
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 54 của luật này”.
Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 điều 77 LDN 2005 còn cho thấy rõ công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập và có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng.
II. khái quát về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần.
Muốn hoạt động kinh doanh không thể không có vốn, vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc sở hữu của DN hoặc sử dụng hợp pháp của DN, được DN sử dụng trong kinh doanh. Có thể nói vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu được trong các DN. Công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn điển hình do vậy vấn đề vốn của CTCP hết sức phức tạp. Ta có thể tiếp cận vốn của CTCP dước nhiều góc độ, dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn thì vốn của CTCP gồm có: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay).
Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn vốn đóng góp của các cổ đông và vốn do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay bằng nhiều hình thức khác nhau: vay ngân hang, vay từ tổ chức cá nhân, vay bằng các phát hành trái phiếu.
Vốn của CTCP có thể được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng điều quan trong là công ty có tỷ lệ vốn hợp lý, phương thức huy động vốn thích hợp và có phương án kinh doanh đúng đắn để sử dụng vốn hiệu quả và tạo được niềm tin cho đối tác đảm bảo công ty pháp triển vững mạnh.
Huy động vốn trong công ty cổ phần.
Những ưu thế của CTCP so với các loại hình công ty khác trong việc huy động vốn.
Điểm lý tưởng trong vấn đề huy động vốn của CTCP hơn hẳn các loại hình công ty khác là “CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn” (khoản 3 điều 77 LDN 2005) trong khi đó doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh “không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào” (khoản 3 điều 130 và khoản 2 điều 141), khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có thuận lợi hơn là được quyền phát hành trái phiếu nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ phần” (khoản 3 điều 38). Trong các loại chứng khoán của CTCP cổ phiếu là ưu thế lớn nhất của CTCP nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng, có thể huy động được một lượng vốn góp lớn, và giảm được nhiều chi phí trung gian so với các hình thức huy động khác do tiếp cận trực tiếp các nhà đầu tư.
CTCP có cấu trúc vốn rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người đầu tư. Phần vốn của cổ đông có thể được tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ các trường hợp do pháp luật quy định) hay đó là hình thức chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK). Tính chuyển nhượng cổ phiếu mang lại cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyển nhượng dễ dàng đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư. Những đặc điểm này đã giúp CTCP có khả năng huy động một lượng vốn ngầm chảy trong các tầng lớp nhân dân, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô lớn đáp ứng được các dự án đầu tư cần lượng vốn lớn và lâu dài, mở rộng đa dạng hóa các ngành nghề kinh doanh dễ dàng hơn.
Quy định của pháp luật về các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần.
Cũng giống như nhiều loại hình công ty khác, CTCP cổ phần có hai cách để huy động vốn là: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay, và trong mỗi cách lại có những phương thức huy động vốn khác nhau. Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu, tăng vốn vay được thực hiện thông qua ba hình thức: phát hành trái phiếu, tín dụng ngân hang, tín dụng thuê mua.
Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty trong đó. Cổ phiếu là bằng chứng chứng minh quyền sở hữu cổ phần của công ty (được quy định rõ tại khoản 1 điều 85 LDN 2005)
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của CTCP cho người đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty trong quá trình thành lập công ty hoặc làm tăng vốn điều lệ của công ty khi công ty đang trong quá trình hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có hoặc có thể dẫn tới sự thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy việc quyết định bán loại cổ phần, số lượng mỗi cổ phần chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm bán, phương thức và giá chào bán.
Quy định của pháp luật về việc phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. có thể chia thành các trường hợp: phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động công ty.
phát hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập công ty:
khi thành lập, CTCP phải huy động vốn góp từ các cổ đông. Theo quy định thì các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần được chào bán, sổ cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các cổ đông sáng lập thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần và loại cổ phần dự kiến chào bán.
-phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty.
Trong quá trình hoạt động, phát hành cổ phiếu là hình thức huy động vốn rất hiệu quả. Đặc biệt là đối với CTCP lớn, có nhiều dự án đầu tư dài hạn, ngắn hạn mà cần lượng vốn lớn. Việc phát hành cổ phiếu lúc này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty tạo ra một lá chắn chống lại sự phá sản công ty, làm tăng độ tín nhiệm của công ty. Phát hành cổ phiếu có thể được thực hiện qua hai phương thức: phát hành riêng lẻ và phát hành rộng rãi ra công chúng.
+ phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành cổ phiếu trong phạm vi một số người nhất định và với số lượng hạn chế, thường là bán cho những người trong công ty. Tại khoản 2 điều 87 LND 2005 quy định rõ về việc phát hành cổ phần phổ thông và chào bán cổ phần cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có trong công ty, theo đó thì việc phát hành cổ phiếu này phải được thông báo bằng văn bản rõ ràng đến từng cổ đông biết, trong thông báo phải ghi rõ tổng số cổ phần dự kiến phát hành và số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán, thời hạn đăng kí mua…các quy đinh tại khoản 2 điều 87 là có sự phát triển hơn so với LDN trước đó. Tuy nhiên trình tự, thủ tục, điều kiện… chào bán cổ phiếu riêng lẻ không được quy định trực tiếp trong LDN 2005 mà do Chính Phủ có hướng dẫn cụ thể.
+ Phát hành cổ phiếu ra công chúng:
Là phương thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải giành một tỉ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ. Điều kiện, phương thức và thủ tục phát hành cổ phiếu được thực hiện theo quy định của luật chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thực hiện các chế độ báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Điều đó xuất phát tứ lý do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành ra không phải là trò lừa đảo hoặc của chủ thể đầu tư có dự án đầu tư kém hiệu quả, gây lãng phí cho nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư. CTCP muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi của các dự án trong tương lai, được quy định rõ trong khoản 1 điều 12 luật chứng khoán 2006:
“Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng phải đảm bảo các điều kiện sau:
Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng kí chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị trên sổ kế toán;
Hoạt động kinh doanh của công ty năm liền trước năm chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán;
Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua”
Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng cổ phiếu của CTCP để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sau khi đảm bảo được các yếu tố trên công ty lập hồ sơ gửi lên Ủy bản chứng khoán nhà nước xin được cấp giấy phát hành.
Phát hành cổ phần là hình thức huy động vốn hiệu quả và dễ dàng nhất của công ty cổ phần và chỉ ở loại hình CTCP mới có điều này, hơn nữa việc chuyển nhượng cổ phần tự do càng tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư.
Không chỉ huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, CTCP còn được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và các hình thức tín dụng khác.
Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng:
Huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu.
Theo khoản 3 điều 77 LDN 2005, CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Cùng với phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn chủ sở hữu, CTCP còn có quyền phát hành trái phiếu để vay vốn dài hạn và trung hạn, đáp ứng cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông. Nhưng khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Trái phiếu có đặc điểm là có thời gian đáo hạn, có lãi suất cố định, tiền trả lãi không phụ thuộc vào việc kinh doanh của công ty thành công hay khó khăn, đem lại cho người sở hữu quyền ưu tiên phân chia lợi nhuận, và có thể tự do chuyển nhượng trên thi trường chứng khoán nhưng chủ sở hữu trái phiếu không có quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty.
Phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn bằng cách vay vốn, theo đó CTCP phát hành một loại chứng chỉ trên thị trường với một mức lãi suất nhất định, đảm bảo thanh toán trong một thời hạn xác định trong tương lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, được hưởng một mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn. Kết quả của việc này sẽ làm tăng vốn vay của công ty.
quy định của pháp luật về việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu:
Điều kiện phát hành trái phiếu của CTCP được quy định cụ thể trong khoản 2 điều 12 luật chứng khoán 2006 cũng tương tự như các điều kiện để phát hành cổ phiếu, ngoài ra công ty còn phải cam kết thực hiện các nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và các điều kiện khác. Cũng giống như phát hành cổ phiếu CTCP cũng phải lập hồ sơ nộp lên Ủy ban chứng khoán nhà nước để được cấp giấy phép phát hành. Trong hồ sơ, đang chú ý có bản cáo bạch mà CTCP phải đưa ra, nội dung của bản cáo bạch gồm các thông tin về cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty, hoạt động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, các báo cáo tài chính của công ty trong hai năm gần nhất, các thông tin về đợt chào bán…Trong trường hợp CTCP phát hành trái phiếu có đảm bảo thì phải nêu rõ tỉ lệ đảm bảo và liệt kê chi tiết tài sản đảm bảo trong hồ sơ xin phép phát hành và có tài liệu hợp lệ để chứng minh tài sản đảm bảo đó thuộc quyền sở hữu của mình hoặc của người thứ 3 (trong trường hợp bảo lãnh) và có đủ giá trị thanh toán trái phiếu.
Công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi: phải nêu rõ điểu khoản mua hoặc chuyển đổi trong hồ sơ xin phép phát hành: điều kiện, thời hạn tiến hành mua hoặc chuyển đổi. tỷ lệ chuyển đổi và phương pháp tính giá mua hoặc giá chuyển đổi. phương pháp đền bù thiệt hại trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu không phát hành được cổ phiếu để đáp ứng quyền mua hoặc chuyển đổi và các điều kiện khác nếu có. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban chứng khoán nhà nước phải cấp giấy phép phát hành cho công ty, trong trường hợp không cấp phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là phương thức huy động vốn ưu việt cho những CTCP có dự án kinh doanh dài hạn, với mức lãi suất thích hợp nhỏ hơn lãi suất mà công ty phải đi vay ngân hang, nhưng lại cao hơn mức lãi suất tiền tiết kiệm gửi ngân hang để thu hút nhà đầu tư. Điều này vừa có lợi cho công ty phát hành vừa có lợi cho nhà đầu tư do bỏ qua được các chi phí trung gian. Mặt khác, lợi thế nữa của việc phát hành trái phiếu là các cổ đông của công ty không phải chia sẻ quyền điều hành công ty cho người khác. Chi phí để có được vốn được giữ ở một mức độ nhất định do đó tính toán được và so với cổ tức là một khoản không tính được nên huy động vốn bằng phát hành trái phiếu sẽ rẻ hơn so với việc phát hành cổ phiếu.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu là hai hình thức huy động vốn rất hiệu quả đối với CTCP, đặc biệt là các công ty lớn. Tuy nhiên không phải CTCP nào cũng có khả năng hoặc đủ điều kiện để huy động vốn bằng hai phương thức này do vậy CTCP còn có thể huy động vốn thông qua hai hình thức nữa đó là tín dụng ngân hang, và tín dụng thuê mua.
b.Huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng.
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng áp dụng trên thực tế. Huy động vốn bằng cách này, CTCP sẽ có những khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh. Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn đối với các công ty có uy tín, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Bên cạnh đó cơ chế cho vay hiện nay đang tạo cho việc huy động vốn qua ngân hàng có nhiều ưu điểm hơn huy động vốn bằng trái phiếu đó là nếu huy động vốn bằng phát hành trái phiếu thì công ty phải trả lại nhà đầu tư cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn, nhưng huy động vốn bằng tín dụng ngân hàng công ty có thể xin gia hạn thêm thời gian nếu chưa có khả năng trả nợ.
Để huy động vốn thông qua hình thức này công ty phải đáp ứng được những điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi sau khi được vay và quan trọng nhất là phải có tài sản để đảm bảo cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trừ trường hợp công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Có hai hình thức cho vay là vay có đảm bảo và vay không có đảm bảo. Vay có đảm bảo thì CTCP phải cam kết trả nợ cho ngân hàng bằng tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng chính tài sản được hình thành từ vốn vay. Các biện pháp này được quy đinh rõ tại khoản 1 điều 3 nghị định 178/1999/NĐ-CP. Khi vay vốn có biện pháp đảm bảo bằng tài sản thì công ty và ngân hàng lập hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Việc kiểm tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực hiện. việc xác định tài sản đảm bảo khoản vay được ngân hàng thực hiện theo quy định tại điều 8 nghị định 178/1999/NĐ-CP và điều 15 nghị định này đối với tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay. Còn cho vay không có đảm bảo thì CTCP phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại điều 20 nghị định 178/1999/NĐ-CP:
“1. khách hàng vay phải có đủ điều kiện sau:
có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi;
có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật;
có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điểm này.
Việc huy động vốn qua tín dụng ngân hàng đòi hỏi công ty phải có tài sản đảm bảo, có tín nhiệm với ngân hàng hoặc phải có năng lực tài chính đủ mạnh thì mới được ngân hàng cho vay vốn. Điều này sẽ rất khó khăn đối với các công ty vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn yếu hoặc các công ty không có tài sản để đảm bảo hoặc nếu có nhưng tài sản của họ không đủ để đảm bảo cho số tiền dự định xin vay. Bên cạnh đó một số tài sản của công ty không đủ điều kiện thể chấp vay vốn ngân hành như tài sản đã lạc hậu về công nghệ sản xuất, xuống cấp, quá cũ …nên không thể bán, chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường hoặc công ty chưa được cấp các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản thế chấp. Hơn nữa đối với các công ty còn chưa khẳng định được uy tín, tín nhiệm của mình đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng để vay vốn bằng tín chấp. Do vậy cần có một phương thức huy động vốn khác khắc phục được những nhược điểm này và hình thức huy động vốn bằng tín dụng thuê mua là một hình thức nữa giúp CTCP có thể huy động vốn đầu tư mà không cần quá nhiều điều kiện như các hình thức huy động vốn kia.
c.Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng thuê mua.
Thuê tài chính là hình thức được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Thụy Điển, Úc…loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỉ XX với tên gọi là thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể. Khác với các hì