Đề tài Tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại

Pháp luật về các hoạt động trung gian thương mại của Việt Nam nhìn chung ra đời muộn hơn các chế định pháp luật khác, chỉ từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì các quy định của pháp luật mới bắt đầu được đề cập đến trong LTM 2005, trong các luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật Hàng hải, Luật Du lịch, Luật Kinh doanh chứng khoán và các băn bản hướng dẫn. Việc áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới thương mại nói chung đã được xác định rõ ràng, phù hợp với nguyên tắc áp dụng luật chung.

doc13 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4665 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 2 I. Pháp luật hiện hành về môi giới thương mại: 2 1.Chủ thể trong quan hệ môi giới thương mại 2 a. Điều kiện về thương nhân trong quan hệ môi giới thương mại 3 b. Hình thức hợp đồng môi giới thương mại 3 2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại 4 a. Nghĩa vụ của bên môi giới 4 b. Trách nhiệm của các bên 5 c. Quyền hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí 6 3. Chấm dứt hợp đồng môi giới 8 II.Các quy định về môi giới thương mại hiện hành cần xem xét sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau: 9 1. Về điều kiện chủ thể trong quan hệ môi giới thương mại 9 2. Về hình thức của hợp đồng 10 3. Chế độ thanh toán chi phí, thù lao 10 C. KẾT LUẬN 11 LỜI MỞ ĐẦU Pháp luật về các hoạt động trung gian thương mại của Việt Nam nhìn chung ra đời muộn hơn các chế định pháp luật khác, chỉ từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì các quy định của pháp luật mới bắt đầu được đề cập đến trong LTM 2005, trong các luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật Hàng hải, Luật Du lịch, Luật Kinh doanh chứng khoán và các băn bản hướng dẫn. Việc áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới thương mại nói chung đã được xác định rõ ràng, phù hợp với nguyên tắc áp dụng luật chung. Nhằm đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về hoạt động môi giới thương mại một trong những hoạt động khá phổ biến ngày này là hoàn toàn cần thiết. Vì vây, em xin lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại” nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề này và đưa ra các ý kiến, quan điểm cá nhân nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về ván đề này. NỘI DUNG Pháp luật hiện hành về môi giới thương mại: Chủ thể trong quan hệ môi giới thương mại Điều kiện về thương nhân trong quan hệ môi giới thương mại Quan hệ môi giới thương mại phát sinh giữa bên môi giới và bên được môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân. LTM 2005 chỉ quy định chung chung bên môi giới phải là thương nhân mà chưa quy định cụ thể các điều kiện của thương nhân thực hiện hoạt động môi giới. Đối với bên môi giới, trong trường hợp môi giới hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện đòi hỏi bên môi giới phải có các điều kiện theo quy định của Nghị định 59/2006/N Đ-CP ngày 12/06/2006 và các luật chuyên ngành. Ví dụ, bên môi giới bảo hiểm phải là doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định hướng dẫn thi hành. Tổ chức kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã có đăng kí kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản theo quy định của pháp luật và phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản. Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật và có chứng chỉ môi giới bất động sản (Điều 8 Luật kinh doanh bất động sản 2006). Đối với bên được môi giới, các quy định của mục 2 chương V LTM 2005 về môi giới thương mại không thể hiện bên được môi giới có nhất thiết phải là thương nhân hay không? Nhưng nếu căn cứ vào Điều 3 khoản 11 định nghĩa về các hoạt động trung gian thương mại trong đó có hoat động môi giới thương mại thì bên được môi giới cũng phải là thương nhân. Điều này dẫn đến những bất hợp lí sau: (i) bên được môi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới chứ không thực hiện dịch vụ này do đó không thể bắt buộc phải là thương nhân; (ii) nếu bên được môi giới cũng là thương nhân thì quan hệ giữa bên môi giới (là thương nhân hoạt động thương mại) với bên được môi giới không phải là thương nhân sẽ không phải là môi giới thương mại và sẽ không chịu sự điều chỉnh của LTM mà chỉ chịu sự điều chỉnh của BLDS. Các quy định về môi giới thương mại sẽ không được áp dụng cho bên là thương nhân. Theo LTM 2005 và các luật hiện hành khác quy định về môi giới thương mại như Bộ luật hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm, chức năng của người môi giới thương mại ở Việt Nam tương tự người môi giới thương mại theo pháp luật của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Điều đó có nghĩa là, khi thực hiện hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ với các bên được môi giới và là người trung gian cho các bên trong quan hệ giao dịch thươm mại, giới thiệu cho các bên cơ hội giao kết hợp đồng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ co liên quan đến những giao dịch thương mại. Đó là những hoạt động trung gian nhằm chắp nối cho những giao dịch rất phong phú và đa dạng, có thể là những giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ thương mại để giúp các bên được môi giới đến với nhau. Khi thực hiện dịch vụ môi giới, bên môi giới có thể thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên soant thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Nếu bên môi giới thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với bên thứ ba thì họ sẽ trở thàn bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới. Tuy nhiên, LTM 2005 của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện. Hình thức hợp đồng môi giới thương mại Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới. Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới. Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp cơ hội giao kết hợp đồng giữa bên được môi giới với bên thứ ba. Về hình thức, LTM 1997 quy định rõ ràng, hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản (Điều 94). LTM 2005 không quy định về hình thức của hợp đồng môi giới thương mại trong khi hầu hết các hoạt động trung gian thương mại như ủy thác, đại diện, đại lý thương mại lại quy định phải lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào khoản 1 Điều 153 LTM 2005 thì hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản, vì điều này quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Do đó, LTM cần phải quy định rõ về hình thức của hợp đồng môi giới, tránh dẫn đến cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia quan hệ hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về những hoạt động môi giới đặc thù như: Môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản. Nghĩa vụ của bên môi giới Theo các văn bản này, nhìn chung bên môi giới có những nghĩa vụ sau: Bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành viên môi giới; Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới; Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lí của các bên được môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ; Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Như vậy, khi thực hiện hoạt động môi giới, bên môi giới được quyền yêu cầu bên được môi giới cung cấp mẫu hàng hóa, tài liệu để thực hiện việc môi giới. Khi bên được môi giới cung cấp những tài liệu đó, thì bên môi giới phải có nghĩa vụ bảo quản nó và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành việc môi giới. Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được môi giới, ngăn chặn khả năng bên môi giới thông đồng với bên thứ ba, Điều 151 khoản 2 LTM 2005 quy định: “bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới”. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, quy định này dẫn đến cách hiểu là bên môi giới sẽ không được quyền cung cấp thông tin có liên quan đến giao dịch mà họ chắp nối bởi trong nhiều trường hợp, việc cung cấp thông tin cho bên thứ ba có thể làm phương hại lợi ích của bên được môi giới. Do đó, quy định này có thể cản trở hoạt động môi giới trung thực của bên môi giới, làm cho hoạt động môi giới thương mại khó có thể trở thành chuyên nghiệp. Pháp luật của một số nước như Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999 nhìn nhận vấn đề này thoáng và rõ ràng hơn nhiều. Điều 425 Luật này quy định: “bên môi giới có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác liên quan đến các vấn đề cần thiết cho việc giao kết hợp đồng dự định”. Quy định như vậy vừa rõ ràng, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa của nghề hoạt động môi giới. Sự chính xác của thông tin mà bên môi giới đưa ra thể hiện ở chỗ họ phải cung cấp một cách đầy đủ những tài liệu do mình nhận được từ bên được môi giới. Ngoài ra, sự chính xác của thông tin còn bao gồm tính trung thực, khách quan của thông tin mà bên môi giới cung cấp. Quy định này không làm mất đi sự chủ động, tính độc lập và chuyên nghiệp của bên môi giới do họ vẫn có quyền tìm hiểu, thu thập thông tin kiểm chứng, để bổ sung vào những gì mà bên được môi giới trao cho để cung cấp cho khách hàng của mình. Trách nhiệm của các bên Trong quá trình môi giới, người môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên tham gia giao dịch mà họ dự định chắp nối. Do chỉ là người trung gian đứng giữa trong quan hệ giao dịch thương mại nên bên môi giới không phải chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của các bên được môi giới. Tuy nhiên, quy định về bảo đảm tư cách pháp lý của các bên được môi giới có lẽ chỉ phù hợp đối với dịch vụ môi giới mà bên được môi giới là thương nhân còn trong dịch vụ môi giới mà bên môi giới được môi giới là cá nhân (không có tư cách pháp nhân) việc xác định tư cách pháp lý của các bên được môi giới là rất khó và thực sự không cần thiết. Nhiệm vụ của người môi giới là làm sao dể các bên đi đến thống nhất thỏa thận ký kết hợp đồng. Còn việc hợp đồng được thực hiện như thế nào thì không phải là trách nhiệm của họ. Hơn nữa để bảo đảm tính khách quan, trung thực trong hoạt động môi giới, pháp luật cũng quy định bên môi giới không được tham gia vào thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Khi người môi giới được người được môi giới ủy quyền thực hiện hợp đồng thì giữa họ nảy sinh một quan hệ khác đó là quan hệ ủy quyền, chứ không phải là quan hệ môi giới. Bên cạnh những nghĩa vụ phải thực hiện, bên môi giới được hưởng một số quyền rất quan trọng và tương ứng với những quyền này là nghĩa vụ của bên được môi giới. Quyền hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí Quyền quan trọng đầu tiên của bên môi giới là quyền hưởng thù lao và tương ứng với nó là nghĩa vụ trả thù lao của bên được môi giới. Thù lao môi giới là khoản tiền mà bên được môi giới phải tra cho bên môi giới khi bên môi giới đem đến cho bên được môi giới một cơ hội giao kết hợp đồng dự định. Khoản 1 Điều 153 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Quy định này bảo đảm cho bên môi giới có trách nhiệm đối với bên hành vi của mình. Chỉ khi hoạt động trung gian môi giới có kết quả thì bên môi giới mới được hưởng thù lao (nếu các bên không có thỏa thuận khác). Dưới góc độ thực tiễn và pháp lý, việc xác định thời điểm được hưởng thù lao trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác sẽ hạn chế việc bên được môi giới trốn tránh nghĩa vụ trả thù lao trong quan hệ môi giới. Một quyền khác của bên môi giới là quyền được thanh toán các chi phí phát sinh liên quan đến việc môi giới. Điều 154 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên được môi giới phải thanh toán các chi phí hợp lí liên quan đến việc môi giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được môi giới”. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước, thương nhân thực hiện dịch vụ môi giới như: môi giới bất động sản, môi giới bảo hiểm, môi giới mua bán doanh nghiệp thường thu một khoản phí nhất định có tính tượng trưng của bên được môi giới để trang trải trong hoạt môi giới gọi là phí giao dịch. Đây có thể hiểu là chi phí tối thiểu của bên môi giới trong việc tìm kiếm đối tác cho người nhờ môi giới trong một khoản thời gian nhất định. Nếu bên được môi giới không sử dụng dịch vụ của bên môi giới thì khoản thu đó có thể được xem là khoản chi phí cho việc môi giới, nhưng không có kết quả. Nhưng nếu giao dịch thành công thì bên môi giới sẽ được hưởng thù lao. Tuy nhiên, LTM 2005 không có sự phân định rõ ràng khi nào thì bên môi giới được hưởng thù lao và khi nào thì được hưởng chi phí môi giới. Trong khi đó, luật này không có quy định bên môi giới phải tiến hành một công việc cụ thể nào thì việc tính chi phí môi giới sẽ không dễ dàng khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này. Vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc năm 1999. Khác với quy định của pháp luật Việt Nam, việc phân định quyền hưởng thù lao môi giới và quyền hưởng chi phí môi giới được Luật hợp đồng Trung Quốc xác định hết sức rõ ràng. Điều 426 Luật này có quy định: “Một khi bên môi giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định, khách hàng phải trả thù lao phù hợp với hợp đồng môi giới…trường hợp bên môi giới tạo các điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định, các chi phí môi giới sẽ do bên môi giới tự chịu”. Điều 427 luật này, xác định rõ hơn: “Trong trường hợp bên môi giới không tạo các điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định thì không có quyền yêu cầu trả thù lao với điều kiện khách hàng phải bồi hoàn chi phí môi giới cần thiết mà bên môi giới phải chịu”. Như vậy, theo Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999, bên môi giới không bao giờ được hưởng đồng thời hai khoản thù lao và chi phí môi giới. Trong thực tế cũng có trường hợp bên môi giới ký hợp đồng môi giới với cả hai bên được môi giới. Khi đó bên môi giới có được hưởng thù lao môi giới theo hợp đồng đã ký với cả hai bên hay không và thù lao sẽ được tính như thế nào? Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ về vấn đề này. Điều này cũng có nghĩa bên môi giới có thể được hưởng cả hai khoản thù lao và chi phí theo thỏa thuận trong khi họ chỉ phải chắp nối một quan hệ hợp đồng. Luật hợp đồng Trung Quốc 1999 không cho phép bên môi giới được hưởng thù lao như vậy trong một số trường hợp nhất định. Điều 426 Luật này quy định “trường hợp bên môi giới đã tạo những điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng bằng cách cung cấp các dịch vụ trung gian có liên quan, thì thù lao trả cho bên mối giới phải được chia đều cho các bên của hợp đồng đó cùng chịu”. Như vậy bên môi giới không có quyền yêu cầu đồng thời được trả chi phí nếu việc trả thù lao đã được thực hiện bởi một bên giao kết hợp đồng. Ngay khi cả hai bên được môi giới là khách hàng của bên môi giới cùng tham gia một giao dịch thương mại thì bên môi giới cũng chỉ được hưởng thù lao xét trong mối quan hệ giao địch thương mại chứ không được hưởng thù lao xét trong mối quan hệ hai hợp đồng môi giới. Một vấn đề khác liên quan đến quyền hưởng thù lao của bên môi giới là các trường hợp loại trừ quyền hưởng thù lao của chủ thể này. Vấn đề này chưa được quy định trong LTM 2005. Trong thực tế nảy sinh nhiều trường hợp, sau khi giao kết hợp đồng các bên được môi giới mới phát hiện bên môi giới không hành động trung thực, gây thiệt hại cho bên được môi giới thì bên môi giới có được hưởng thù lao hay không? Pháp luật một số nước, ví dụ như Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999, tại Điều 425 quy định rõ về trường hợp loại trừ quyền hưởng thù lao của bên môi giới: “trường hợp bên môi giới cố tình che giấu bất kỳ một hiện thực quan trọng nào hoặc cung cấp thông tin sai liên quan đến việc giao kết hợp đồng dự định, và do đó gây thiệt hại cho quyền lợi của khách hàng thì không có quyền yêu cầu thù lao và phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại đó”. Ở Mỹ nếu bên môi giới không trung thực cũng sẽ không được hưởng thù lao. Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định cụ thể về vấn đề này. Trong nhiều trường hợp sẽ có nhiều ý kiến hay những quan điểm khác nhau; có ý kiến cho rằng một khi bên môi giới đã gây thiệt hại cho bên được môi giới thì cho dù bên môi giới có giao kết được hợp đồng theo đúng như các quy định của môi giới thì bên môi giới cũng không được hưởng thù lao do họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, pháp luật quy định bên môi giới được hưởng thù lao từ thời điểm cácbên được môi giới ký kết hợp đồng với nhau. Vì vây trong trường hợp các bên không có thỏa thuận nào khác, việc các bên được bên môi giới tạo cầu nối để ký kết hợp đồng với nhau sẽ làm phát sinh quyền được hưởng thù lao của bên môi giới, bất kể trước đó bên môi giới có gây thiệt hại cho bên được môi giới hay không. Còn việc bên môi giới gây thiệt hại cho bên được môi giới thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Trên cơ sở những quy định của luật thực định tôi cho rằng ý kiến thứ hai là đúng. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý cần có quy định điều chỉnh của pháp luật rõ hơn về vấn đề này. LTM Việt Nam cũng có xu hướng không quy định quyền được hưởng lợi ích của bên được môi giới từ bên môi giới. Điều này cũng đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng việc quy định như vậy có nghĩa là trong hợp đồng môi giới, bên được môi giới có thể được hưởng hoặc không được hưởng từ bên môi giới những cơ hội giao kết hợp đồng cần thiết, mà không bắt buộc bên môi giới phải cung cấp. Tuy nhiện, có người lại cho rằng đây là thiếu sót của nhà làm luật vì không thể có một quan hệ hợp đồng nào mà quyền và nghĩa vụ của các bên không tương xứng như vây. Cần phải khách quan nhìn nhận rằng việc thiếu những quy định như vây là một hạn chế của LTM 2005. Bên môi giới là bên chắp nốt nhưng quan hệ, tạo ra các quan hệ giao dịch thương mại giữa các bên có nhu cầu. Thực tế bên môi giới nhận tài liêu, thông tin và mang những tài liệu, thông tin ấy đi mời chào, tìm kiếm, giới thiệu cho bên được môi giới thì có thể hiểu là bên được môi giới đã sử dụng dịch vụ của bên môi giới trong việc tìm kiếm đối tác. Vì vậy cho dù không tìm kiếm được đối tác thì bên được môi giới cũng phải có ý nghĩa trả thù lao hoặc chi phí cho bên môi giới. Trong trường hợp này pháp luật chưa phân biệt giới hạn của việc sử dụng dịch vụ môi giới và mục đích mà bên môi giới đặt ra. Chấm dứt hợp đồng môi giới LTM 2005 không quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 424 BLDS 2005 về các trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự thì hợp đồng môi giới thương mại chấm dứt theo thỏa thuận của các bên và trong những trường hợp sau: Hợp đồng môi giới hết thời hạn; Mục đích môi giới đã hoàn thành; Một trong các bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,bên môi giới mất tư cách thương nhân; Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện. LTM hiện hành không quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, hợp đồng này là một loại hợp đồng dịch vụ nên căn cứ theo Điều 525 BLDS 2005, bên được môi giới có quyền đơn phương chấm dứt việc thực hiện hợp đồng nếu việc tiếp tục thực hiện dịch vụ không có lợi cho mình nhưng phải thông báo cho bên môi giới viết trước một thời gian hợp lý và thanh toán tiền công cho phần dịch vụ đã tiến hành và bồi thường thiệt hại. Nếu bên được môi giới không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận thì bên môi giới có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Các quy định về môi giới thương m
Luận văn liên quan