Đề tài Tìm hiểu thủ tục rút gọn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Thủ tục rút gọn trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được ban hành. Qua nghiên cứu lịch sử lập pháp của nhà nước ta chúng tôi thấy ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nhằm đơn giản hóa thủ tục tố tụng hình sự đối với một số vụ án, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/4/1946, quy định hướng giải quyết đối với các vụ án đơn giản, phạm pháp quả tang, hình phạt tù từ 5 năm trở xuống. Tại Điều 23, Sắc lệnh 51-SL quy định: Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 5 năm tù trở xuống thì Viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng. Đây là tiền đề cho việc ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục rút gọn sau này. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến trước khi Nhà nước tiến hành pháp điển hóa Luật Tố tụng hình sự vào năm 1988, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản dưới luật quy định về thủ tục rút gọn trong khi tiến hành tố tụng hình sự. Đó là: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, các vụ án phạm pháp quả tang. Thông tư này quy định: Đối với các vụ án phạm tội quả tang không thuộc loại trọng án, có đủ chứng cứ, bị can nhận tội, thì cơ quan Công an lập biên bản đưa sang Viện Kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển thẳng sang Tòa án xét xử. Thông tư số 10-TATC ngày 08/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số án hình sự ít quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Thông tư này cũng đã hướng dẫn tương đối chi tiết về điều kiện áp dụng thủ tục rút ngắn đối với những vụ án hình sự là những vụ án hình sự nhỏ có thể phân xử mà không phải mở phiên tòa. Cụ thể, chỉ những việc có đủ bốn điều kiện sau đây mới được áp dụng thủ tục rút ngắn: Thứ nhất, có thể áp dụng thủ tục về việc đưa vụ án ra xét xử không cần có cáo trạng đối với một số vụ án thuộc các loại tội xâm phạm tài sản chủ nghĩa, làm ăn phi pháp, gây rối trật tự chung như: Trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân, lừa đảo nơi công cộng; đầu cơ tích trữ, chứa chấp trái phép các loại vật tư, lương thực, hàng hóa do nhà nước quản lý, buôn bán tem phiếu ở các cửa hàng, các chợ; nấu rượu lậu, buôn rượu lậu, lạm phát lợn, trâu bò; hành động càn quấy, gây rối trật tự chung; hành hung người khác; lăng mạ hành hung cán bộ trong khi làm nhiệm vụ. Ngoài những loại tội phạm kể trên, cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án các địa phương cũng có thể thống nhất ý kiến về đưa ra xét xử một số tội phạm khác không cần có cáo trạng. Thứ hai, việc phạm pháp phải có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng. Việc phạm pháp có tính chất quả tang là bị cáo bị bắt ngay khi phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội, hoặc bị cáo bị các nhà chức trách hay nhân dân đuổi bắt được ngay sau khi phạm tội. Tội phạm đơn giản, rõ ràng là vụ án không có những tình tiết phải mất thời gian điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo. Thứ ba, bị cáo phải có căn cước, lý lịch đã được xác minh rõ ràng. Thứ tư , hình phạt tối đa mà Tòa án nhân dân có thể quyết định là từ 2 năm tù tr ở xuống. Tiếp đó Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 01-TT ngày 28/2/1975 hướng dẫn về nội dung hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút ngắn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng

doc3 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu thủ tục rút gọn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu thủ tục rút gọn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam TS. Vũ Đức Trung Trưởng phòng_ ĐHCSND Tại Điều 23, Sắc lệnh 51-SL quy định: Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 5 năm tù trở xuống thì Viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng. Đây là tiền đề cho việc ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục rút gọn sau này. 1. Thủ tục rút gọn trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được ban hành. Qua nghiên cứu lịch sử lập pháp của nhà nước ta chúng tôi thấy ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nhằm đơn giản hóa thủ tục tố tụng hình sự đối với một số vụ án, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/4/1946, quy định hướng giải quyết đối với các vụ án đơn giản, phạm pháp quả tang, hình phạt tù từ 5 năm trở xuống. Tại Điều 23, Sắc lệnh 51-SL quy định: Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 5 năm tù trở xuống thì Viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng. Đây là tiền đề cho việc ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục rút gọn sau này. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến trước khi Nhà nước tiến hành pháp điển hóa Luật Tố tụng hình sự vào năm 1988, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản dưới luật quy định về thủ tục rút gọn trong khi tiến hành tố tụng hình sự. Đó là: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, các vụ án phạm pháp quả tang. Thông tư này quy định: Đối với các vụ án phạm tội quả tang không thuộc loại trọng án, có đủ chứng cứ, bị can nhận tội, thì cơ quan Công an lập biên bản đưa sang Viện Kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển thẳng sang Tòa án xét xử. Thông tư số 10-TATC ngày 08/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số án hình sự ít quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Thông tư này cũng đã hướng dẫn tương đối chi tiết về điều kiện áp dụng thủ tục rút ngắn đối với những vụ án hình sự là những vụ án hình sự nhỏ có thể phân xử mà không phải mở phiên tòa. Cụ thể, chỉ những việc có đủ bốn điều kiện sau đây mới được áp dụng thủ tục rút ngắn: Thứ nhất, có thể áp dụng thủ tục về việc đưa vụ án ra xét xử không cần có cáo trạng đối với một số vụ án thuộc các loại tội xâm phạm tài sản chủ nghĩa, làm ăn phi pháp, gây rối trật tự chung như: Trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân, lừa đảo nơi công cộng; đầu cơ tích trữ, chứa chấp trái phép các loại vật tư, lương thực, hàng hóa do nhà nước quản lý, buôn bán tem phiếu ở các cửa hàng, các chợ; nấu rượu lậu, buôn rượu lậu, lạm phát lợn, trâu bò; hành động càn quấy, gây rối trật tự chung; hành hung người khác; lăng mạ hành hung cán bộ trong khi làm nhiệm vụ. Ngoài những loại tội phạm kể trên, cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án các địa phương cũng có thể thống nhất ý kiến về đưa ra xét xử một số tội phạm khác không cần có cáo trạng. Thứ hai, việc phạm pháp phải có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng. Việc phạm pháp có tính chất quả tang là bị cáo bị bắt ngay khi phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội, hoặc bị cáo bị các nhà chức trách hay nhân dân đuổi bắt được ngay sau khi phạm tội. Tội phạm đơn giản, rõ ràng là vụ án không có những tình tiết phải mất thời gian điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo. Thứ ba, bị cáo phải có căn cước, lý lịch đã được xác minh rõ ràng. Thứ tư , hình phạt tối đa mà Tòa án nhân dân có thể quyết định là từ 2 năm tù tr ở xuống. Tiếp đó Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 01-TT ngày 28/2/1975 hướng dẫn về nội dung hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút ngắn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng Như vậy:Thủ tục rút gọn đã được pháp luật Tố tụng hình sự nước ta quy định và áp dụng từ rất sớm; tuy nhiên trước đây những thủ tục này chỉ là thủ tục rút ngắn về thời gian tiến hành tố tụng mà chưa đơn giản hóa các thủ tục tố tụng hình sự. 2. Thủ tục rút gọn theo quy định của BLTTHS năm 2003 Theo quan niệm mới trong BLTTHS năm 2003 thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự phải là thủ tục tố tụng hình sự được rút ngắn về thời gian tố tụng. Đồng thời phải đơn giản hóa một số thủ tục nhất định đối với những vụ án nhất định nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng; góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự. Thời gian tiến hành tố tụng phải ngắn hơn thời hạn thông thường; bỏ một số thủ tục tố tụng như không cần làm bản kết luận điều tra, cáo trạng; áp dụng đối với vụ án có đủ điều kiện do BLTTHS quy định; giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời. Trước hết về phạm vi, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn. Vấn đề này được quy định rất chặt chẽ trong Bộ luật. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 319, Điều 320 – BLTTHS là chỉ áp dụng đối với việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, không mở rộng sang các giai đoạn xét xử phúc thẩm hay xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn cũng đ ư ợc quy định rất chặt chẽ. Chỉ khi nào vụ án hình sự hội tụ đầy đủ 4 điều kiện sau thì mới được quyết định áp dụng thủ tục rút gọn: Người thực hiện hành vi phạm tội bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Tiếp theo là nội dung của thủ tục rút gọn, bao gồm: Thời hạn tiến hành tố tụng; thủ tục điều tra, truy tố, xét xử; áp dụng các biện pháp ngăn chặn; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. - Thời hạn trong tố tụng hình sự được hiểu là khoảng thời gian tối đa mà BLTTHS cho phép tiến hành tố tụng đối với vụ án. Thời hạn tiến hành tố tụng đối với các vụ án theo thủ tục rút gọn là 30 ngày, trong đó thời hạn điều tra 12 ngày; thời hạn truy tố 04 ngày; thời hạn xét xử 14 ngày. - Thủ tục điều tra được tiến hành như sau: Lập bản phạm pháp quả tang; khởi tố vụ án, bị can; tiến hành xác minh căn cước, lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự (nếu có).Ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.Viện Kiểm sát gửi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn cho Cơ quan điều tra hoặc bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong 24 giờ, kể từ ngày ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trường hợp cần thiết thì tiến hành thêm một số hoạt động điều tra nhằm thu thập và củng cố chứng cứ như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đối chất, trưng cầu giám định.v.v.. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố ngắn gọn đề nghị Viện Kiểm sát khởi tố bị can về tội danh nào theo điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự. - Thủ tục trong giai đoạn truy tố: Trong thời hạn 04 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước toà bằng quyết định truy tố (không cần có bản cáo trạng); trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vụ án tiến hành tố tụng theo thủ tục chung. - Thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Trong thời gian 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định: Hoặc đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung; hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung và tạm đình chỉ vụ án. Trường hợp này Tòa án sẽ chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung; hay đình chỉ vụ án khi có căn cứ đình chỉ điều tra. - Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn: Thứ nhất, về biện pháptạm giữ: Thủ tục rút gọn được áp dụng đối với các vụ án phạm tội quả tang nên trong thực tế tạm giữ sẽ là biện pháp được áp dụng phổ biến đối với các vụ án.Các quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ trong thủ tục rút gọn cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Thời hạn tạm gi ữ tối đa không quá 03 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt; không được gia hạn tạm giữ. Thứ hai, vềtạm giam: Trong việc áp dụng thủ tục rút gọn, biện pháp tạm giam cũng phải tuân thủ các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền như trường hợp tạm giam thông thường. Về nguyên tắc, thời hạn tạm giam không được vượt quá thời hạn tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn là 30 ngày; trong đó điều tra 12 ngày, truy tố 04 ngày; xét xử 14 ngày. Do đó, thời hạn tạm giam tối đa là 30 ngày. -Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo : Theo quy định tại Điều 318 và Điều 320 BLTTHS năm 2003 thì thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử được áp dụng theo quy định của Chương XXXIV, đồng thời theo những quy định khác không trái với những quy định của Chương XXXIV.Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện Kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Như vậy, thủ tục rút gọn đối với một số vụ án khi đáp ứng đ ược các điều kiện mà Bộ luật hình sự đã quy định nếu được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng sẽ có một số tác dụng nhất định, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án; tiết kiệm được kinh phí, lực lượng và thời gian trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án; không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử vô tư, khách quan. Đồng thời còn bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước pháp luật ./.
Luận văn liên quan