Nước là một tài nguyên quí của con người. Mọi hoạt động sản xuất sinh
hoạt đều cần dùng nước. Chính vì vậy mà hàng ngày có một lượng lớn nước
được tiêu thụ và đồng thời cũng ngần ấy lượng nước thải được thải ra môi
trường. Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam. Lượng
nước thải của thành phố thải ra hàng ngày là rất lớn và chủ yếu tập trung vào
ba nguồn lớn là: nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và từ bệnh viện. Tuy nhiên ,
hệ thống sử lí nước thải của thành phố lại chưa có, còn của các doanh nghiệp
thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống sử lí ,còn lai hầu như là thả i
trực tiếp ra môi trường từ đó gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng tới sức khoẻ đời sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như
gây mất mĩ quan đô thi.
Ở Hà Nội hiện nay, khi mà hệ thống thoát nước của thành phố chưa đáp
ứng với mức phát triển hiện nay của thành phố, cũng như quy mô dân số và
các cơ sở sản xuất ở trong thành phố. Do vậy việc thoát nước chủ yếu thông
qua việc thải ra các con sông đào hay các cống trong thành phố. Sông Tô lịch
là con sông lớn nhất trong bốn con sông chảy trong thành phố có nhiệm vụ
tiêu thoát nước trong thành phố là sông Sét, Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch. Nó là
con sông ô nhiễ m nhất và cũng là con sông có nhiều vấn đề liên quan đến môi
trường do số lượng dân cư sống hai bên bờ sông là khá đông đúc.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2354 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực tế viêc thu phí nước thải hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI:
Tìm hiểu thực tế viêc thu phí nước
thải hiện nay
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................3
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................5
I: Khái niệm ................................................................................5
1: Thuế pigou ..........................................................................5
2:Phí ........................................................................................5
II. Việc cần thiêt sử dụng phí nước thải. ...................................6
II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). .......8
II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP) ............8
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải. ..................................10
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM ..........................................13
I. Khái quát chung ....................................................................13
I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội .....................13
II.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm. ...........................................17
PHẦN III. THU PHÍ ....................................................................20
I: Văn bản pháp luật ................................................................20
II. Đối tượng áp dụng. ..............................................................20
a) Nước thải từ cơ sở sản xuất công nghiệp. ........................20
b) Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ:........21
III. Mục tiêu của việc thu phí bảo vệ môi trường. ..................21
IV. Khó khăn ............................................................................25
V. Kiến nghị ..............................................................................25
KẾT LUẬN ...................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................28
3
LỜI MỞ ĐẦU
Nước là một tài nguyên quí của con người. Mọi hoạt động sản xuất sinh
hoạt đều cần dùng nước. Chính vì vậy mà hàng ngày có một lượng lớn nước
được tiêu thụ và đồng thời cũng ngần ấy lượng nước thải được thải ra môi
trường. Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam. Lượng
nước thải của thành phố thải ra hàng ngày là rất lớn và chủ yếu tập trung vào
ba nguồn lớn là: nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và từ bệnh viện. Tuy nhiên ,
hệ thống sử lí nước thải của thành phố lại chưa có, còn của các doanh nghiệp
thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống sử lí ,còn lai hầu như là thải
trực tiếp ra môi trường từ đó gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng tới sức khoẻ đời sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như
gây mất mĩ quan đô thi.
Ở Hà Nội hiện nay, khi mà hệ thống thoát nước của thành phố chưa đáp
ứng với mức phát triển hiện nay của thành phố, cũng như quy mô dân số và
các cơ sở sản xuất ở trong thành phố. Do vậy việc thoát nước chủ yếu thông
qua việc thải ra các con sông đào hay các cống trong thành phố. Sông Tô lịch
là con sông lớn nhất trong bốn con sông chảy trong thành phố có nhiệm vụ
tiêu thoát nước trong thành phố là sông Sét, Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch. Nó là
con sông ô nhiễm nhất và cũng là con sông có nhiều vấn đề liên quan đến môi
trường do số lượng dân cư sống hai bên bờ sông là khá đông đúc.
Sông tô Lịch hiện nay đang là con sông mà hệ thống nước mặt đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng nhất ở Hà Nội hiện nay. Nhà Nước và thành phố hiện
nay cũng đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải tạo môi trường sông và
nước thải của thành phố vào con sông này, mà đây lại là loại hình không có
thu để tự trang trải.
Theo nghi Định 67/2003NĐ-CP của chính phủ từ 1/1/2004 trở đi bắt đầu
thực hiện thu phí nước thải. Xuất phát từ thục tế môi trường sông Tô Lịch và
mục đích của việc thu phí là: nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức và
4
nhân dân, tăng cường kiểm soát ô nhiễm, góp phần đảm bảo sự phát triển bền
vững, làm trong sạch môi trường.
Chế độ thu phí sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng
các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm, sản xuất sạch hơn bằng công nghệ tiên
tiến, nhằm giảm thiểu lượng ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất
và chất lượng sản phẩm. Việc thu phí còn giúp phục vụ cho công tác quản lí
môi trường và cải thiện môi trường.
Với những mục đích đó, em muốn tìm hiểu xem thực tế với viêc thu phí
nước thải hiện nay có thực hiện được những mục đích đã nêu ở trên hay
không. Mà cụ thể ở đây là việc cải thiện môi trường tại sông Tô Lịch, nâng
cao thể ở đây là chất lượng nước có được cải thiện hay không và qua đó hiểu
thêm những kiến thức đã được học tại trường kết hợp với thục tế đang diễn ra.
Từ đó cái cái nhìn toàn diện, cách đánh giá các vấn đề môi trường, nâng cao
nhận thức và hiểu biết.
Em xin cám ơn thầy giáo Lê Trọng Hoa và thầy Nguyễn Thế Chinh đã
giúp em hoàn thành đề án này
5
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I: Khái niệm
1: Thuế pigou
Pigou là người đầu tiên có sáng kiến áp dụng cách tiếp cận kinh tế và
việc giải quyết ngoại ứng do ô nhiễm môi trường. ông đã đưa ra ý tưởng về
việc đánh thuế với những người gây ô nhiễm. Đây là loại thuế thay vì đánh
vào đầu ra sản phẩm, người ta đánh cho mỗi đơn vị phát thải ô nhiễm đầu
vào.
2:Phí
Một dạng của thuế pigou, là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế
người sản xuất. để xác định mức phí người ta căn cứ vào chi phí cần thiết để
làm giảm một đơn vị ô nhiễm.
Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban thường Vụ Quốc hội khoá 10 (số
38/2001 PL-UBTVQH 10 ngay 28/8/20001 ) qui định: “phí là khoản tiền mà
tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch
vụ được qui định trong danh mục phí”.
Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại mục A .
Khoản 10 pháp lệnh gồm 11 khoản trong đó các loại phí liên quan tới môi
trường như sau:
- Phí bảo vệ môi trường
- Phí thẩm định báo cáo tác động môi trường
- Phí vệ sinh.
- Phí phòng chống thiên tai.
- Phí sử dụng an toàn bức xạ.
- Phí thẩm định an toàn bức .
Riêng phí bảo vệ môi trường được tại nghị định số 57/2002NĐ-CP
ngày 3/6/2002 của chính phủ qui định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí
qui định thành 6 loại như sau.
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
6
- Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than
đá và các nguyên liệu khác.
- Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn.
- Phí bảo vệ môi trường tiếng ồn.
- Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ
môi trường với viêc khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoảng sản khác.
Như vậy phí bảo vệ môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng có
thể được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải
trả khi được hưởng một dịch vụ về môi trường. Có thể nói đây là một công cụ
quản lí cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lí
nhằm đạt được các mục tiêu môi trường. Và đây cũng là nghĩa vụ của các
doanh nghiệp, các tổ chức và là một nhu cầu tất yếu của xã hội nhằm đảm bảo
vệ môi trường.
II. Việc cần thiêt sử dụng phí nước thải.
Việc sử dụng phí nước thải là cần thiết và phù hợp với thực tế chung
của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong những
năm trở lại đây. Xuất phát từ thực tê cuộc sống của con người gắn liền với
môi trường tự nhiên mà trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay đang gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng tới những khu vực có người dân
sống quanh khu vực ô nhiễm.
Kinh ngiệm thực tế của của các nước trên thế giới cho thấy việc nhà
nước dùng các công cụ kinh tế mà cụ thể ở đây là phí nuớc thải là một biện
pháp hữu hiệu trong việc bảo vệ môi trường. Những nước này thu được nhiều
thành công cải thiện môi trường hiện tại, bảo vệ môi trường hiện có.
Trung Quốc là một quốc gia nước đang phát triển, có xuất phát điểm
về kinh tế giống với Việt Nam, nhưng họ đã có một hệ thống phí phạt do vi
phạm tiêu chuẩn môi trường. Hệ thống này bao gồm hơn 100 mức phí đánh
vào các nguồn gây ô nhiễm môi trường với nước thải, khí thải, phế thải, tiếng
ồn và các loại khác. Lệ phí từ ô nhiễm nước chiếm 70% tổng lệ phí thu được.
7
Lệ phí nay được tính từ năm 1979 bằng việc thử nghiệm ở thành phố Suzhan.
Kết quả là đã làm giảm tới 60,4% tổng lượng chất gây ô nhiễm thải ra trong
giai đoạn 1979-1986. Lệ phí được qui định theo nguyên tắc sau:
+ Lệ phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị
+ Lệ phí thay đổi theo số lượng, nồng độ và loai chất gây ô
nhiễm được thải ra
+ Lệ phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công nghiệp
đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân với
lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn.
Malaysia một nước trong khu vực, vào giữa những năm 1979, chính
phủ Malaysia đã tiến hành áp dụng hệ thu phí đối với ngành chế biến dầu cọ
thô, chế biến cao su tự nhiên và các hoạt động khai hoang. Hệ thống này được
thiết lập trên cơ sở các tiêu chuẩn về nồng độ cho phép trong nước thải cảu
các chất gây ô nhiễm. Các lệ phí ấn định cho việc xả thải các chất gây ô
nhiễm ở dưới mức tiêu chuẩn. Vượt quá mức tiêu chuẩn phải bị sử phạt mức
nộp lệ phí.
Còn với các quốc gia phat triển OECD áp dụng phí đánh vào nguồn gây
ô nhiễm nước, loại phí này được áp dụng riêng không liên quan gì đến hệ
thống xử lí nước thải từ các nhà máy xí nghiệp. ở hầu hết các nước OECD phí
sử dụng hệ thống thoát nước thải là công trình công cộng, chịu sự quản lí và
giám sát của chính quyền địa phương. Do đó, các hộ gia đình và cơ sở sản
xuất thường phải trả lệ phí do sử dụng hệ thống công cộng này.
Từ kinh nghiệm, cũng như thực tế của các quốc gia đã làm trước chúng
ta có thể thấy rằng, phí bảo vệ ô nhiễm môi trường nói chung và phí nước thải
nói riêng được áp dụng là một thực tế khách quan và cũng là xu hướng chung
và tất yếu của thế giới
Còn với nước ta phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các
nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm
theo hướng tích cực cho môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo
8
vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà
nước để đầu tư khắc phục và cai thiện môi trường. Với mục đích này, phí bảo
vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô
nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường và
cải thiện môi trường ” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải
đóng phí khắc phục ô nhiễm.
II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc này bắt nguồn từ sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và
phat triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP qui định năm 1972
có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động
kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác
nhân gây ô nhiễm thi ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô
nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô
nhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm
phải chịu mọi khoản chi phíđể thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do
chính quyền thục hiện, nhằm đảm bảo môi trương ở mức chấp nhận được.
II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện
môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những
người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra
một khoản thu cho nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng
nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được từ BPP
được thu theo nguyên tắc các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá
nhân không phải trả cho việc gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải
thiện họ là những người được hưởng lợi cần đóng góp. Tuy nhiên số tiền này
không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải một chính sách do nhà
nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lời phải đóng góp,
nên ngưyên tắc BPP chỉ khuyến khích việc bảo vệ môi trường một cách gián
tiếp.
9
Đây là nguyên tắc có thể được sử dụng như một định hướng hỗ trợ
nhằm đạt được mục tieu môi trường, dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi
trường. Tuy nhiên hiệu quả môi trường có thể đạt được hay không, trên thực
tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và khả năng sủ dụng tiền hợp
lí.
10
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải.
Theo nghị định 67/2003/NĐ-CP của chính phủ ban hành việc thu phí
nước thải và thông tư 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn thi hành
nghị định 67. Nghị định 67 quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải; chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải. Còn thông tư 125 hướng dẫn thi hành nghị định 67. trong đó quy định rõ
đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải và cách tính phí.
Đối với nước thải công nghiệp cách tính phí được tính:
Số phí = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm trong
nước thải(mg/l)*10-3 * mức thu đối với chât gây ô nhiễm ra MT(đồng/kg)
Đối với sinh hoạt:
Số phí = lượng nước sử dụng * giá bán(đồng/m3) * tỉ lệ thu phí(%)
Qua các văn bản pháp luật có thể thấy phí nước thải nước ta được tính
dựa vào các tiêu chí:
+ Tổng lượng thải
+ hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước tính bằng mg/l
+ Đặc tính các chất gây ô nhiễm. Mỗi chất gây ô nhiễm khác nhau có
một mức thu phí tối đa và tối thiểu khác nhau, tuỳ theo mức độ độc hại của
mỗi loại chất và được quy đinh tại nghị định 67. Các chất gây ô nhiễm chủ
yếu được qui đinh trong luật là: BOD, COD, TSS, Hg, Pb, As, Cd.
Stt
Chất gây ô nhiễm có trong nước
thải
Mức thu
(đồng/kg chất gây ô nhiễm có trong
nước thải)
Tên hoá chất Kí hiệu Tối thiểu Tối đa
1 Nhu cầu ô xy sinh hoá ABOD 100 300
2 Nhu cầu ô xy hoá học ACOD 100 300
3 Chất rắn lơ lửng ATSS 200 400
4 Thuỷ ngân AHg 10.000.000 20.000.000
5 Chì APb 300.000 500.000
6 Arsenic AAs 600.000 1.000.000
7 Cadmium ACd 600.000 1.000.000
11
Việc thực thi phí nước thải ở nhiều nước trên thế giới đã thu được
nhiều thành tựu đáng khích lệ. Do đó việc thực thi phí nước thải với nước ta
cũng có nhiều ảnh hưởng tác động đến môi trường nước mặt. Mà cụ thể ở đây
là nước mặt và môi trường sông Tô Lịch. Nó có thể giúp mọi người nâng cao
ý thức bảo vệ môi trường. Nhà nước và địa phương có thêm nguồn thu từ đó
đầu tư trở lại vào môi trường nhằm bảo vệ môi trường. Kích thích các doanh
nghiệp đầu tư vào hệ thống sử lí nước thải hoặc đổi mới công nghệ nhằm làm
giảm lượng ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường.
Hiện nay tổng lượng nươc thải sinh hoạt của khu vực nội thành Hà Nội
khoảng 500.000m3/ngày đểm trong đó có khoảng 100.000m3ngày đêm là
nước thải của các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viên. toàn bộ lượng nước
thải này được tiêu thoát chủ yếu qua 4 con sông chính cẩu thành phố là: sông
Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Lừ. Nước thải sinh hoạt phần lớn
qua sử lí sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi thải vào tuyến cống chung, kênh,
mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại này làm việc kém hiệu quả do xây
dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng
chất bẩn trong nước cao, gây ảnh hưởng xấu trong chất lượng nước trong các
kênh mương.
Sông Tô lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông tiêu thoát nước
chính của thành phố Hà Nội. Qua đánh giá thực tế ban đầu bằng việc quan sát
trực tiếp sông, có thể nói sông đang bị ô nhiễm nặng dù mùa khô hay mùa
mưa. vào những ngày nóng bức mùi từ sông bốc lên gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới đời sống, sức khoẻ, cũng như sản xuất của ngưòi dân hai bên bờ
sông. Không những thế nó còn gây mất mĩ quan đô thị làm giảm hình ảnh thủ
đô cũng như môi trường của thành phố.
Tuy nhiên với việc áp dụng phí nước thải với các cơ sở sản xuất và các
hộ gia đình, sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Phí nước thải có
thể buộc các doanh nghiệp phải làm giảm lượng gây ô nhiễm, từ đó nâng cao
12
chất lượng môi trường. Với nguồn thu từ phí nước thải, chinh phủ có thể đầu
tư trở lại môi trường thực hiện các công việc khảo sát đo đạc, lập báo cáo,
thực hiện các công việc quản lí cũng như các công trình về môi trường.
Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cũng như xây dựng
hệ thống sử lí nước thải, đổi mới công nghệ.
Song vấn đề đặt trong giai đoạn đầu của chương trình thu phí ô nhiễm
đối với nước thải là có thể xác định phí nói trên với tất cả các cơ sở sản xuất
gây ô nhiễm ở Hà Nội hay không?
13
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM
I. Khái quát chung
I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội
Hà nội nằm ở 20 độ 57 phút vĩ bắc và 105 độ 35 phút – 106 độ 25 phút
độ kinh đông. Từ bắc xuống nam dài nhất khoảng 93 km, từ đông sang tây
rộng nhất khoảng 30 km.
Hà Nội nằm trong vùng nhiệt đới gío mùa, độ ẩm trung bình trong năm
là 81-82% tháng cao nhất vào khoảng 85-86%. Nhiệt độ trung bình có chiều
hướng tăng, năm 1985 là 23,5 độ C, từ năm 1990-1995 nhiệt độ trung binh là
24 độ C ( có năm lên tới 24,1 độ C ) hàng năm bình quân có từ 8-10 cơn bão
và áp thấp nhiệt đới đi qua. Tổng lượng mưa trong năm, theo thống kê thì
trong những năm gần đây có nhiều biến động, tuy nhiên trung bình hàng năm
khoảng 1500 mm. Số ngày mưa từ 140-160 ngày trong năm.
Sông Tô Lịch thuộc nội thành Hà Nội, nó dài 13.5 km rộng từ 30-40m
sâu khoảng từ 3-4 m. Đầu nguồn bắt đầu từ kênh đào cũ Thụy Khê thuộc khu
vực Phan Đình Phùng. Nó qua Từ Liêm và dịa hạt quận Thanh Trì rồi cùng ba
con sông khác chảy đổ vào sông Nhuệ qua Đầm Thanh Liệt. Sông được cải
tạo bằng nguồn vốn vay ODA, hai bên bờ sông được thành phố cải tạo có xây
kè đá và các hệ thống thoát nước thải trực tiếp vào trong lòng sông qua rất
nhiều các ống cống lớn nhỏ của các hộ dân cư và các doanh nghiệp trên địa
bàn.
Tình trạng ô nhiễm do nước thải của thành Phố Hà Nội. Nước thải của
thành phố Hà Nội thải ra hệ thống thoát nước hàng ngày khoảng 500.00m3
ngày/đêm trong đó có khoảng 100.000 m3 ngày/đêm là nước thải công nghiệp,
của các cơ sở dịch vụ và bệnh viện
Thực trạng ô nhiễm tại sông Tô Lịch
Sông Tô Lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông và cũng là con
song bị ô nhiễm nặng nhất, điều này được thể hiện thông qua nước thải đổ vào
14
sông Tô Lịch mỗi ngày là 242.506m3 ngày/đêm. Trong đó nước thải công
nghiệp của các nhà máy trên địa bàn Hà Nội là 68.206m3 ngày/đêm, ttổng
lượng nước thải của khu cục công cộng và bệnh viện là 43.300 m3 ngày/dêm.
Do Hà Nội chưa có hệ thống xử lí nước thải, nên nước thải được đổ
trực tiếp qua các con sông và qua các hồ. Mặc dù hệ thống này có khả ngăng
tự làm sạch rất lớn, nhưng do mức độ ô nhiễm quá cao đẫn tới khả năng này
hầu như không còn được phát huy được nữa mà một phần do tốc độ đô thị hoá
quá nhanh. Năm 1996 sông Tô Lịch tiếp nhận chỉ khoảng 3000m3 nước thải
từ 30.000 hộ gia đình và 22000m3 từ 33 nhà máy.
Nhìn vào bảng 1 về nồng độ một số chất ô nhiễm có trong nước thải
Bảng 1. Tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch
Các chỉ tiêu Vị trí Cầu Mới Vị trí Nghĩa đô
Ph 7.7-8.2 7.5
Chất rắn lơ lửng (mg/l) 230-570 211
CDO (mg/l) 183-325 149
BOD (mg/l) 21-120 40.2
NO3 (mg/l) 0.39 0.61
NH4 (mg/l) 5.3-17.1 9.6
H2S (mg/l) 3.2
Nguồn: Đinh Văn Sâm năm 1996
Sông Tô lịch có độ ô nhiễm cao như vậy có thể kể ra đây một số nguồn thải
chính là:
Bệnh viện Lao.
Bệnh viện nhi Thuỵ Điển.
Bệnh viện phụ sản.
Bệnh biện giao thông.
Nhà máy giầy Thượng Đình.
Nhà máy cao su Sao Vàng
Nhà máy lever Haso
15
Nhà máy bóng đèn.
Nhà máy bia Hà Nội.
Nhà máy Trung Kính
Nhà máy nhựa Đại kim
Nhà máy Sơn tổng hợp.
Ngo