Trong những năm gần đây, kinh tế, xã hội Việt Nam có những bước phát triển mới, vấn đề sức khoẻ cũng có những đặc điểm riêng, nhiều loại bệnh tật của mô hình cũ như suy dinh dưỡng, nhiễm khuẩn vẫn tồn tại nhưng mô hình bệnh tật mới đã xuất hiện và gia tăng một số bệnh rất nguy hiểm lây qua con đường TD và HIV/AIDS. Với trào lưu du nhập lối sống phương Tây vào nước ta hiện nay, số VTN QHTD trước hôn nhân, tình trạng nạo phá thai, hiện tượng lạm dụng TD trẻ em có xu hướng tăng cao Những vấn đề này đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ VTN. Để giúp các em HS có thể tiếp thu lối sống lành mạnh thì việc trang bị kiến thức về sức khoẻ giới tính, về việc tránh thai an toàn để bảo vệ mình là điều vô cùng cần thiết.
Ở nước ta, việc GDGT đã bước đầu được triển khai cho HS thông qua nhiều hình thức như tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, chính sách DS/KHHGĐ, giáo dục trong nhà trường Tuy nhiên sự tiếp cận với kiến thức về SKSS lại có sự chênh lệch giữa những HS sống ở khu vực thành phố với nông thôn; giữa các vùng miền; giữa HS nam và HS nữ
Điều tra và đánh giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS về SKSS là việc làm cần thiết làm cơ sở cho công tác GDGT trẻ VTN ở mức độ gia đình, nhà trường, địa phương để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của HS về CSSKSS từ đó hình thành cho HS lối sống lành mạnh, tự chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ bản thân.
Việc điều tra, tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS trên địa bàn huyện Yên Khánh (Ninh Bình) đặc biệt là HS THPT chưa được tiến hành một cách có hệ thống và hiệu quả vì vậy mà hiểu biết của VTN về vấn đề SKSS chưa được nâng cao, các em còn hiểu biết mơ hồ và thiếu chính xác về các nội dung của SKSS từ đó mà có thái độ và hành vi không đúng với tác phong của người HS. Đây là vấn đề bức thiết cần được chú trọng mà trước hết là cần phải hiểu rõ thực trạng, thái độ hành vi của HS về vấn đề này để có thể có những biện pháp tác động phù hợp.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình”
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11833 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, kinh tế, xã hội Việt Nam có những bước phát triển mới, vấn đề sức khoẻ cũng có những đặc điểm riêng, nhiều loại bệnh tật của mô hình cũ như suy dinh dưỡng, nhiễm khuẩn vẫn tồn tại nhưng mô hình bệnh tật mới đã xuất hiện và gia tăng một số bệnh rất nguy hiểm lây qua con đường TD và HIV/AIDS. Với trào lưu du nhập lối sống phương Tây vào nước ta hiện nay, số VTN QHTD trước hôn nhân, tình trạng nạo phá thai, hiện tượng lạm dụng TD trẻ em có xu hướng tăng cao… Những vấn đề này đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ VTN. Để giúp các em HS có thể tiếp thu lối sống lành mạnh thì việc trang bị kiến thức về sức khoẻ giới tính, về việc tránh thai an toàn để bảo vệ mình là điều vô cùng cần thiết.
Ở nước ta, việc GDGT đã bước đầu được triển khai cho HS thông qua nhiều hình thức như tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, chính sách DS/KHHGĐ, giáo dục trong nhà trường… Tuy nhiên sự tiếp cận với kiến thức về SKSS lại có sự chênh lệch giữa những HS sống ở khu vực thành phố với nông thôn; giữa các vùng miền; giữa HS nam và HS nữ…
Điều tra và đánh giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS về SKSS là việc làm cần thiết làm cơ sở cho công tác GDGT trẻ VTN ở mức độ gia đình, nhà trường, địa phương để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của HS về CSSKSS từ đó hình thành cho HS lối sống lành mạnh, tự chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ bản thân.
Việc điều tra, tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS trên địa bàn huyện Yên Khánh (Ninh Bình) đặc biệt là HS THPT chưa được tiến hành một cách có hệ thống và hiệu quả vì vậy mà hiểu biết của VTN về vấn đề SKSS chưa được nâng cao, các em còn hiểu biết mơ hồ và thiếu chính xác về các nội dung của SKSS từ đó mà có thái độ và hành vi không đúng với tác phong của người HS. Đây là vấn đề bức thiết cần được chú trọng mà trước hết là cần phải hiểu rõ thực trạng, thái độ hành vi của HS về vấn đề này để có thể có những biện pháp tác động phù hợp.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình”
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Xuất phát từ các đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi vị thành niên.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được thực trạng nhận thức của HS về SKSS từ đó đưa ra được các biện pháp nâng cao nhận thức của HS về vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
- Mô tả được một số yếu tố liên quan tới sức khoẻ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Từ đó đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về sức khoẻ sinh sản.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
Khảo sát tình hình nhận thức của HS THPT tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình về SKSS.
Khảo sát tình hình giáo GDGT cho HS ở các trường THPT tại huyện Yên Khánh.
Mô tả một số yếu tố liên quan tới sức khoẻ và hành vi của HS THPT về SKSS trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Đưa ra kết luận chung về thực trạng kiển thức, thái độ, hành vi của HS THPT tại Yên Khánh từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của HS về SKSS.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình về SKSS.
Khách thể nghiên cứu: GV, phụ huynh, HS THPT trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa điểm: Các trường THPT trên địa bàn Huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
Gồm: Trường THPT Yên Khánh A
Trường THPT Yên Khánh B
Trường THPT Vũ Duy Thanh
Thời gian: Từ tháng 01/2013 đến tháng 05/2013
Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các văn bản Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDGT và CSSKSS.
- Nghiên cứu các công trình khoa học đề cập đến SKSS làm cơ sở đề xuất phương pháp tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT trên địa bàn huyện Yên Khánh.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến SKSS làm cơ sở cho việc thiết kế câu hỏi phiếu điều tra tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
6.2. Phương pháp điều tra
- Điều tra bằng phiếu câu hỏi tự điền.
- Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với GV, phụ huynh, HS…
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến các chuyên gia, thầy cô giáo có kinh nghiệm về SKSS.
6.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Thống kê kết quả thu được từ phiếu điều tra, khảo sát, phỏng vấn.
- Xử lí số liệu thống kê bằng phần mềm MS. Excel.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tình hình ngiên cứu về SKSS VTN trên thế giới
Kiến thức TD, SKSS, QHTD lần đầu, TD trước kết hôn
Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy VTN thiếu hụt kiến thức TD, SKSS. Nguồn thông tin về TD, SKSS chủ yếu với VTN là từ sách báo, phim ảnh, bạn đồng lứa. Giáo dục TD, SKSS trong nhà trường và giao tiếp bố mẹ với VTN về TD, SKSS rất hạn chế.
Số liệu điều tra quốc gia về VTN Mỹ (2006) cho thấy 42% VTN nhóm 13-15 tuổi và 69% nhóm 16 – 18 tuổi đã QHTD. Kết nối với nhà trường là yếu tố giảm QHTD ở VTN và yếu tố liên quan tăng QHTD ở VTN là sử dụng chất gây nghiện, phơi nhiễm với bạo lực.
Nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kì (2008) thấy rằng tuổi QHTD lần đầu là 16 tuổi ở nam và 17 tuổi ở nữ VTN (tương tự với tuổi trung bình QHTD lần đầu của VTN một số nước Châu Âu là 17 tuổi) và tỷ lệ VTN có QHTD có xu hướng tăng lên. Ở Thụy Điển, xã hội cởi mở về TD và kiến thức TD, SKSS được giảng dạy trong trường phổ thông. Tuổi được đồng ý QHTD là 15 tuổi, nhiều dịch vụ CSSKSS là miễn phí.
Điều tra quốc gia ở Croatia (2007) với học sinh phổ thông 15-19 tuổi cho thấy 28% nam, 17% nữ có QHTD trước 16 tuổi. QHTD sớm ở nam có liên quan với đã từng sử dụng chất gây nghiện, đánh nhau, trêu chọc bạn bè.
Ở một số nước Châu Phi VTN có QHTD sớm và quan hệ nhiều bạn tình là phổ biến, ảnh hưởng của bạn đồng lứa có vai trò quan trọng tới QHTD ở VTN. Nghiên cứu ở Nigeria (2006) thấy rằng 19% nam và 6% nữ VTN học sinh phổ thông trung học đã QHTD. Tuổi trung bình QHTD lần đầu ở nam là 15,7 tuổi và ở nữ là 16,1 tuổi. Khoảng 1/4 VTN có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất và 25% VTN QHTD lần đầu là không tự nguyện. Tuổi VTN càng thấp càng thiếu kiến thức về TD, SKSS. Nghiên cứu với nữ VTN 12-19 tuổi ở một số nước châu Phi (2007) thấy tỷ lệ QHTD lần đầu không mong muốn là 38% ở Malawi, 30% ở Ghana, 23% ở Uganda và 15% ở Burkina Faso. Nghiên cứu của Ott (2010) thấy rằng nam VTN chủ động hơn nữ về QHTD, gợi ý các chương trình can thiệp về TD, SKSS tăng cường hơn với nam VTN.
Nghiên cứu ở một số nước Châu Á, Châu Phi (2002) thấy tỷ lệ QHTD trước hôn nhân cao: 23% (Triều tiên) 49,5% (Philippines), 81,4% (Thái Lan) và 14,8% (Việt Nam), 71% (Ni-Giê-Ria), phản ánh nhu cầu từ vấn về TD an toàn và dịch vụ CSSKSS thích hợp cho thanh niên và VTN ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ QHTD trong 3 tháng trước điều tra ở VTN học sinh THPT Trung Quốc (2009) là 4,5% và 1,8%. Nghiên cứu ở Iran (2006) với VTN 15-18 tuổi thấy 28% VTN đã QHTD, yếu tố liên quan với QHTD gồm tuổi cao hơn, thái độ đồng tình với QHTD trước kết hôn, sử dụng rượu bia.
Có thai, nạo phá thai
Nghiên cứu ở Châu Phi (2001) thấy có thai VTN liên quan tới tần suất QHTD, không sẵn có BPTT, QHTD lần đầu bị ép buộc,không thảo luận với bạn trai về TD. Nhiều VTN không biết có thể có thai trong QHTD lần đầu, VTN nhận thức được về BPTT nhưng tỷ lệ QHTD không an toàn vẫn cao do không chủ động BPTT và bạn tình từ chối sử dụng. Một số nghiên cứu ở các nước đang phát triển (2011) thấy rằng VTN có thai thường nạo phá thai tại các cơ sở y tế tư nhân mặc dù chất lượng dịch vụ kém.
Ở khu vực Tiểu sa mạc Sahara Châu Phi, VTN QHTD sớm, có thai, nạo phá thai, nhiễm HIV gia tăng là vấn đề được quan tâm. Nghiên cứu (2001) cho thấy VTN nữ thường được coi là “con mồi” khai thác TD của nam giới nhiều tuổi hơn và đã kết hôn. Nghiên cứu tại Kenia (2003), so sánh nhóm VTN có thai lần đầu và có thai lặp lại thấy trên 50% số VTN mang thai là khi chưa kết hôn, nhóm VTN lần đầu có thai có xu hướng là có thai không mong muốn.
Nghiên cứu ở Mỹ (2005) với VTN có thai để tìm hiểu về QHTD và các yếu tố liên quan thấy rằng 2/3 VTN hài lòng vì không có thai, số còn lại là thất vọng và hầu hết cho rằng bạn tình của họ thất vọng hơn. Nhóm VTN có thai sớm, nạo phá thai sớm bị nhiều ảnh hưởng tiêu cực hơn các nhóm khác. Nữ VTN thường không muốn có thai nhưng một bộ phận nữ VTN thụ động, không có kĩ năng, động lực về tránh có thai ngoài ý muốn. Nghiên cứu về nạo phá thai tuổi VTN ở Thụy Điển (2005) thấy VTN đồng tình với nạo phá thai, nhưng thiếu kiến thức về nạo phá thai. VTN ngại sử dụng BPTT và QHTD khi sử dụng bia rượu là yếu tố làm tăng nguy cơ có thai. Nghiên cứu ở Hy Lạp (2004) với VTN nạo phá thai tại các cơ sở y tế thấy rằng 65% VTN có thai là ở đô thị, 73% là chưa kết hôn, 62% là QHTD lần đầu trước 15 tuổi, BPTT được sử dụng phổ biến là xuất tinh ngoài (49%) và BCS (28,5%). Quyết định nạo phá thai từ nữ (65%) hoặc cả hai (73%). Bố mẹ ít khi biết được VTN có thai hoặc nạo phá thai. Nghiên cứu ở Đan Mạch (2009) thấy 43% VTN biết đúng thời điểm dễ thụ thai nhất trong chu kì kinh nguyệt, 64% VTN biết đúng tuổi thai có thể nạo, hút và nữ có kiến thức đúng cao hơn nam.
Nghiên cứu của Brown (2005) cho thấy có thai và tai biến liên quan mang thai là nguyên nhân hàng đầu về tử vong và bệnh tật liên quan trong phụ nữ trẻ ở các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu ở Ghana, Kenya, Zimbabue, Bangladesh, Ai Cập, Indonesia, Philippines, Bolivia, Brazil, Columbia, Mexico, Pháp, Nhật bản và Mỹ thấy hậu quả mang thai ở VTN ảnh hưởng đến học vấn, tình trạng kinh tế xã hội, sức khoẻ cho mẹ và con.
Sử dụng biện pháp tránh thai
Vialard và cộng sự (2005), Aruda (2011) thấy rằng hầu hết VTN không chủ động tìm các BPTT trừ khi họ lo lắng về sự mang thai hoặc đã có QHTD một số lần mà chưa dùng BPTT. Sử dụng BPTT hay không có thể do bạn tình, sợ có thai, hay do cha mẹ muốn bảo vệ con gái khỏi có thai, hoặc để điều hoà kinh nguyệt. VTN sử dụng BCS không thường xuyên trong QHTD với bạn tình thường xuyên là do niềm tin không cần sử dụng, cam kết tương lai, có quan niệm chung, phong tục tập quán, mức độ khoái cảm và tình yêu. Nữ VTN có kiến thức tốt hơn nam về BCS, ít ảnh hưởng bạn đồng lứa hơn, nhận thức nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn, tự tin hơn. Nhưng nữ lại ít quyết định sử dụng BCS hơn trong QHTD do nam giới hoặc động lực trong mối quan hệ của họ. Nữ VTN có QHTD trước tuổi 17 ít sử BPTT hơn. VTN có QHTD không sử dụng BPTT thường là xuất thân từ các gia đình nhiều thành viên, muốn có con, và xuất thân từ tầng lớp xã hội thấp hơn. Nghiên cứu ở Mỹ (2005) thấy bạo hành bằng lời nói có liên quan đến không sử dụng BCS trong QHTD gần nhất ở VTN và bạo hành thể chất có liên quan đến mang thai.
Một số nghiên cứu ở Goa-Tê-Ma-La, Ni-Giê-Ria, Jamaica, Triều Tiên, Philippines, Thái Lan, và Việt Nam thấy tỷ lệ cao thanh thiếu niên biết về nguy cơ QHTD không an toàn, nhưng tỷ lệ sử dụng BCS vẫn thấp, tỷ lệ VTN Nepal (2010) sử dụng BCS chỉ chiếm ½.
Bệnh LTQĐTD và HIV
Nghiên cứu ở VTN một số nước châu Á, Thái Bình Dương (2007) cho thấy 13% nữ và 4% nam đã từng mắc bệnh LTQĐTD trong đó 33% có QHTD trước 15 tuổi và 55% có nhiều bạn tình. Yếu tố liên quan với mắc bệnh LTQĐTD là nữ, có nhiều bạn tình, đã từng QHTD để nhận tiền hay quà tặng. Nghiên cứu khác cũng thấy rằng có nhiều bạn tình liên quan đến nguy cơ bệnh LTQĐTD ở VTN. Một số tác giả đề cập rằng quan tâm đến SKSS VTN là vấn đề cấp thiết ở Châu Á và các nước đang phát triển vì các nguy cơ liên quan mang thai, nạo phá thai, sức khoẻ và lây nhiễm HIV/AIDS ở VTN.
Nghiên cứu của Dahlback (2003) và Owolabi (2005) ở một số nước Châu Phi thấy VTN thiếu kiến thức về nguy cơ bệnh lây truyền qua QHTD bao gồm cả HIV/AIDS. Nghiên cứu với VTN đã QHTD ở Uganda (2006) thấy tỷ lệ nữ mắc STIs là 4,5% bị Lậu, 8% trùng roi, và 4% bị giang mai, 15,2% huyết thanh dương tính HIV. Tỷ lệ tương ứng ở nam VTN là 4,7%, 0%, 2,8% , và 5,8%. Báo cáo của Berlan và cộng sự (2010) cho thấy một số tiến bộ về Vắc-xin và kĩ thuật chẩn đoán nhanh một số bệnh LTQĐTD giúp tiếp cận sớm phòng tránh một số bệnh LTQĐTD ở VTN. Ancheta (2005) đề cập rằng để giảm nguy cơ bệnh LTQĐTD ở VTN cần có tiếp cận kết hợp các vấn đề về sinh học, nhận thức, tâm lý, hành vi, và xã hội.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam nói chung
Mặc dù SKSS VTN là chủ đề mới được quan tâm ở nước ta song cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
“Báo cáo kết quả cuộc khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành về sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên” do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và sở Giáo dục Khánh Hoà cũng nằm trong số đó. Đây là một nghiên cứu khá hoàn chỉnh. Cuộc khảo sát được thực hiện tại 6 trường phổ thông cấp II và cấp III. Đối tượng là học sinh lớp 8 và 11 (360 em), 350 cha mẹ của học sinh lớp 8 và 11, 60 giáo viên bộ môn đã từng tham gia giảng dạy GDGT và SKSS và đại diện ban giám hiệu, GVCN và các GV phụ trách đoàn đội. Kết quả thu được đã cung cấp những thông tin cơ bản về kiến thức, thái độ, thực trạng và hành vị liên quan đến SKSS của một bộ phận HS, phụ huynh và của GV ở Khánh Hoà.
Tháng 5/1995, John Chalker đã thực hiện nghiên cứu về “Kiến thức, thái độ và hành vi của thanh thiếu niên về DS-KHHGĐ, phòng chống AIDS và các mô hình câu lạc bộ thanh niên” tại Nghệ An và Hà Nội. Mẫu nghiên cứu gồm 271 người, trong đó độ tuổi từ 15-21 chiếm 27,3%. Kết quả cho thấy hầu hết thanh thiếu niên tán thành mô hình gia đình 1-2 con. Tuy nhiên, có sự mâu thuẫn giữa kiến thức và hành vi. Hành vi thực hiện các BPTT của thanh thiếu niên còn hạn chế. Quan niệm thích con trai vẫn tồn tại trong gần đại đa số mẫu. 80% người được hỏi không biết gì về tình trạng HIV/AIDS ở khu vực mình sống, gồm cả những người đang sống ở Hà Nội. Hai loại mô hình câu lạc bộ “ thanh niên chưa lập gia đình” và “các cặp vợ chồng” được nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.
Đề tài nghiên cứu về: “Sức khoẻ vị thành niên ở Việt Nam” do chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thuỵ Điển và trường Đại học Y Thái Bình thực hiện đã tổng kết kết quả của cuộc điều tra sức khoẻ VTN tại 5 tỉnh (Hà Nội, Thái Bình, Bình Định, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh), có so sánh với kết quả của một số nghiên cứu khác. Nội dung chính chủ yếu của cuốn sách này cũng tập trung vào thực trạng, nhận thức, thái độ và hành vi về SKSS VTN ở Việt Nam. Mẫu nghiên cứu định lượng là 4675 vị thành niên (trong đó có 51,2% nam và 48,8% nữ). Có 184 cuộc phỏng vấn sâu và 72 cuộc thảo luận nhóm, tiến hành trên 22 xã/phường thuộc 9 quận/huyện của 5 tỉnh/thành phố. Báo cáo này cung cấp một số lượng thông tin tương đối lớn về kiến thức, thái độ, hành vi và thực trạng SKSS của VTN và bên cạnh đó, báo cáo còn đưa ra định hướng cho việc soạn thảo chiến lược tăng cường sức khoẻ VTN giai đoạn 2003-2010.
Một đề tài khác của Lê Xuân Hoàn về “Nhận thức và hành vi của thanh thiếu niên nông thôn kiếm sống theo thời vụ ở các đô thị về nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS”. Mẫu: 450 thanh thiếu niên từ nông thôn ra Hà Nội, Đà Nẵng và tp. Hồ Chí Minh kiếm sống. Nghiên cứu đã phát hiện 5% thanh thiếu niên chưa biết gì về HIV/AIDS. Hầu hết thanh thiếu niên biết hai con đường lây nhiễm qua đường TD và tiêm chích ma tuý. Đa số thanh thiếu niên ra thành thị kiếm sống theo thời vụ đã có nhận thức về sự nguy hiểm của HIV/AIDS, những quy chế lây nhiễm, các phương pháp chủ yếu phòng tránh HIV/AIDS.
Hay như một nghiên cứu khác của Phan Thục Anh và Daniel Goodkind về: “Hiểu biết, thái độ và thực hành liên quan đến HIV/AIDS trong thanh niên Hà Nội” cũng thuộc nội dung nghiên cứu trên. Mẫu nghiên cứu là thanh niên ở lứa tuổi từ 18-25 ở Hà Nội. Nghiên cứu được thực hiện tại 3 địa điểm: trường đại học Công Đoàn, một doanh trại quân đội và một xã ngoại thành Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy thanh niên ở Hà Nội có hiểu biết khá tốt về HIV/AIDS. Tỷ lệ những người chưa có gia đình có QHTD thấp. Mặc dù, biện pháp BCS được mọi người lựa chọn nhiều hơn cả nhưng đáng chú ý là chỉ có 80,6% cho là phải sử dụng BCS khi quan hệ với gái bán dâm. Vẫn còn một tỷ lệ nhỏ (10%) cho rằng nguy cơ nhiễm HIV từ ôm, hôn nhau, ăn chung bát đĩa, bắt tay, dùng chung nhà vệ sinh.
Một nghiên cứu nữa về “Khảo sát đánh giá về kiến thức, thái độ và thực hành của thanh thiếu niên Hải Phòng với các vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản” của Trần Thị Trung Chiến và cộng sự. Nghiên cứu này được tiến hành tại 20 xã/phường thuộc Hải Phòng với đối tượng thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi. Theo kết quả nghiên cứu, nhìn chung, nhận thức của thanh thiếu niên vẫn chưa đầy đủ, vẫn còn thiếu hụt những kiến thức về hiểu biết về sinh lý, BPTT, QHTD, các LTQĐTD.
Nghiên cứu của Barbara S.Mensch, Đặng Nguyên Anh, Wesley H.Clark: “Vị thành niên và biến đổi xã hội ở Việt Nam”, được tiến hành tại 19 xã và 5 phường của 16 huyện thuộc 6 tỉnh (Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tây, Quảng Nam- Đà Nẵng, tp. Hồ Chí Minh và Kiên Giang). Nội dung nghiên cứu này tuy có hơi khác so với những nghiên cứu trên nhưng chủ đề chính mà đề tài này cung cấp là: giáo dục học đường, sử dụng thời gian và hoạt động sống; việc làm và thái độ xã hội; những vấn đề di cư của VTN; dậy thì và quan hệ khác giới, sử dụng thuốc tránh thai và kiểm soát sinh đẻ; hôn nhân và sinh đẻ; vai trò bình đẳng giới; kiến thức sức khoẻ, SKSS của VTN.
Nhìn chung, chủ đề chung xuyên suốt các tài liệu này là về vấn đề thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của vị thành niên đối với sức khoẻ sinh sản. Những nội dung thường được đề cập đến là tình bạn, tình yêu, TD, QHTD, sử dụng các BPTT, có thai sớm và nạo hút thai trong lứa tuổi VTN; nhận thức về HIV/AIDS. Bên cạnh đó, nội dung về các tệ nạn xã hội cũng được nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: VTN&TN độ tuổi từ 15-24, đa số họ là học sinh THPT, với tỷ lệ nam, nữ gần tương đương. Bên cạnh đó, đối tượng VTN đã thôi học, có vợ/chồng, trẻ em ngoài nhà trường chiếm tỷ lệ thấp. Ngoài ra thì người lớn tuổi cũng được lựa chọn tham gia nghiên cứu bao gồm các giáo viên phổ thông và cha mẹ VTN.
Về địa bàn nghiên cứu: các đề tài tập trung chủ yếu vào khu vực đô thị, những nơi thuận lợi về giao thông và có đông dân cư.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng chủ yếu là phương pháp điều tra xã hội học: thu thập thông tin định lượng qua các bảng hỏi, thu thập thông tin định tính qua các bảng phỏng vấn sâu, hội thảo, thảo luận nhóm. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS và EPI- INFO.
Tóm lại, các nghiên cứu trên cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về SKSS VTN, các số liệu trong các cuộc nghiên cứu trên có tính chất thống kê, mô tả và các giải pháp tình thế.
Tình hình nghiên cứu ở Ninh Bình và huyện Yên khánh nói riêng
Tại Ninh Bình hiện chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nhận thức, thái độ hành vi của VTN về SKSS:
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài Đức, Anke Van Dam, Vũ Thu Hà, Phan Thanh Tuyền về “Kiến thức, thái độ, hành vi của VTN liên quan đến SKSS và TD tại Hà Nội và Ninh Bình” được thực hiện năm 1999 tại Hà Nội và Ninh Bình. Đối tượng được nghiên cứu là VTN ở độ tuổi 15-19. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn cung cấp thông tin về SKSS cho VTN từ trường học. Tuy nhiên, lượng thông tin còn rất nghèo nàn và thiếu chi tiết. Các GV rất ngại khi đề cập đến vấn đề này. Thông tin đại chúng là cung cấp nhiều nhất thông tin về lĩnh vực này. Các BPTT thường được biết đến nhiều nhất là vòng và BCS. Đa số không chấp nhận QHTD trước hôn nhân nhưng tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định có QHTD trước hôn nhân hay không. Các em đều cho rằng cần được giáo dục về giới. Cha mẹ và thầy cô giáo là những nhà GDTD thích hợp nhất…
Chưa có bất cứ một nghiên cứu cụ thể nào về đánh giá thực trạng hiểu biết, thía độ, hành vi của VTN liên quan đến SKSS tại bất kì địa phương nào của tỉnh N