Trong những năm gần đây, ngành Thủy sản nước ngọt ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Sản phẩm thủy sản là nguồn thực phẩm thơm ngon giàu chất dinh dưỡng nên được nhiều người ưa chuộng. Cá Chép là một trong những loài cá nuôi truyền thống, có lịch sử phát triển nuôi lâu đời nhất. Loài cá này đóng vai trò quan trọng trong nghề nuôi cá nước ta nói riêng và các nước nhiệt đới khác nói chung, mang lại thu nhập cao cho người nuôi. Cá Chép có lịch sử lâu đời và được nuôi rộng rãi như hiện nay là do chúng có rất nhiều ưu điểm: Chịu đựng được ngưỡng oxy thấp và ngưỡng chịu nhiệt rộng. Ăn được nhiều loại thức ăn – thức ăn tự nhiên, thức ăn chế biến và thức ăn công nghiệp. Chất lượng thịt cá Chép thơm ngon, bán được giá cao. Bên cạnh đó cá Chép còn có ý nghĩa tâm linh, được nuôi làm cảnh nhiều. Vì vậy các mô hình nuôi ngày càng được mở rộng, sản lượng cá tăng lên hàng năm.
Tuy vậy, một hạn chế của ngành Nuôi trồng Thủy Sản nói chung và của nghề nuôi cá Chép nói riêng là vấn đề chất lượng con giống kém, tỷ lệ cá giống nhiễm các loại bệnh là khá cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của người nuôi. Một trong những nguyên nhân đó là ở giai đoạn cá hương, cá giống thường gặp ngoại ký sinh trùng đơn bào và đa bào. Với khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa của nước ta là điều kiện thuận lợi cho ký sinh trùng phát triển. Các bệnh do chúng gây ra có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người, động vật và gây tổn thất to lớn đối với sản xuất nông ngư nghiệp. Chúng gây ra dịch bệnh làm cá sinh trưởng và phát triển kém hoặc chết nhiều gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. Với cường độ nhiễm thấp, cá chậm lớn, chất lượng con giống kém. Nếu nhiễm với cường độ cao gây chết rải rác đến hàng loạt làm ảnh hưởng đến kinh tế của người nuôi. Tuy nhiên hiện nay việc xử lý đàn cá nhiễm bệnh đang gặp nhiều khó khăn. Thuốc, hóa chất sử dụng an toàn với môi trường sinh thái lại không hoặc kém tác dụng điều trị. Còn thuốc và hóa chất có hiệu quả điều trị bệnh lại có độ độc và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Vì vậy thử nghiệm các loại thuốc, hóa chất với nồng độ thích hợp để xử lý ký sinh
trùng đang được các nhà bệnh học thủy sản quan tâm nghiên cứu để đạt hiệu
quả điều trị cao nhất mà không độc hại và ảnh hưởng đến môi trường.
Xuất phát từ thực tế trên, đồng thời góp phần tìm ra biện pháp xử lý hiệu quả nhất để khuyến cáo bà con nuôi thủy sản có biện pháp phòng và xử lý, hạn chế thiệt hại kinh tế do ngoại ký sinh trùng gây ra, chúng tôi tiến hành đề tài: “Tìm hiểu tình hình nhiễm và biện pháp xử lý ngoại ký sinh trùng ký sinh trên cá Chép ở giai đoạn cá hương và cá giống tại khu vực trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội”
66 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2652 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tình hình nhiễm và biện pháp xử lý ngoại ký sinh trùng ký sinh trên cá Chép ở giai đoạn cá hương và cá giống tại khu vực trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA THÚ Y
----------***----------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“Tìm hiểu tình hình nhiễm và biện pháp xử lý ngoại ký sinh trùng ký sinh trên cá Chép ở giai đoạn cá hương và cá giống tại khu vực trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội”
Người thực hiện: NGÔ THỊ HOA TRANG
Khóa : 50
Ngành : THÚ Y
Người hướng dẫn: 1. TS. Trịnh Đình Thâu
2. ThS. Kim Văn Vạn
Hà Nội – 2010
THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
Tên đề tài:
“Tìm hiểu tình hình nhiễm và biện pháp xử lý ngoại ký sinh trùng ký sinh trên cá Chép ở giai đoạn cá hương và cá giống tại khu vực trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội”
Người thực hiện: NGÔ THỊ HOA TRANG
Khóa : 50
Ngành : THÚ Y
Người hướng dẫn: 1. TS. Trịnh Đình Thâu
2. ThS. Kim Văn Vạn
Địa điểm thực hiện: Trại cá Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội
Thời gian thực hiện: Từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những số liệu trong báo cáo này là hoàn toàn trung thực và chính xác, là kết quả của quá trình theo dõi trong thời gian thực tập, không sao chép của bất kỳ tác giả nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi tài liệu tham khảo đã trích dẫn đều được nêu tên trong phần TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Sinh viên
Ngô Thị Hoa Trang
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ từ các cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới Giáo viên hướng dẫn: TS. Trịnh Đình Thâu và ThS. Kim Văn Vạn đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên trong lúc tôi gặp khó khăn nhất, chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực tập để tôi có thể kết thúc đề tài và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong 5 năm đại học, tôi đã nhận được sự dạy dỗ, chỉ bảo của các thầy cô trong Khoa Thú y nói riêng và các thầy cô trong Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội nói chung, qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng tới các thầy cô giáo.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, người thân, những người đã cổ vũ, động viên tôi vượt qua những lúc khó khăn.
Cuối cùng, con xin bày tỏ lòng sâu sắc nhất tới bố mẹ, những người đã sinh ra con, nuôi con khôn lớn, tạo cho con niềm tin và nghị lực để con có được ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày tháng năm 2010
Sinh viên
Ngô Thị Hoa Trang
MỤC LỤC
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Tên đầy đủ
CĐN
Cường độ nhiễm
TLN
Tỷ lệ nhiễm
TN
Thí nghiệm
KST
Ký sinh trùng
NTTS
Nuôi trồng Thủy sản
ĐVTS
Động vật thủy sản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Các nồng độ thuốc và hoá chất dùng để điều trị thử nghiệm ký sinh trùng trên cá Chép hương và Chép giống 33
Bảng 4.1: Kết quả kiểm tra CĐN, TLN trùng bánh xe Trichodina nobilis trên cá Chép bệnh 38
Bảng 4.2: Kết quả kiểm tra CĐN, TLN ấu trùng sán lá song chủ Centrocestus formosanus trên cá Chép bệnh 40
Bảng 4.3: Kết quả kiểm tra CĐN, TLN sán lá đơn chủ Dactylogyrus trên cá Chép bệnh 43
Bảng 4.4: Kết quả trị bệnh ngoại ký sinh trùng bằng NaCl 45
Bảng 4.5: Kết quả trị bệnh ngoại ký sinh trùng bằng KMnO4 47
Bảng 4.6: Kết quả trị bệnh ngoại ký sinh trùng bằng CuSO4 50
Bảng 4.7: Kết quả trị bệnh ngoại ký sinh trùng bằng Formalin 52
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 1: Ảnh cá Chép hương và Chép giống 4
Hình 2: Cá Chép khổng lồ 6
Hình 3: Trichodina nobilis tại Bắc Ninh 37
Hình 4: Trichodina nobilis Theo Bùi Quang Tề 37
Hình 5: Ấu trùng sán lá song chủ Centrocestus fomosanus 39
Hình 6: Sán lá đơn chủ ký sinh trên mang cá Chép giai đoạn cá hương 42
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, ngành Thủy sản nước ngọt ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Sản phẩm thủy sản là nguồn thực phẩm thơm ngon giàu chất dinh dưỡng nên được nhiều người ưa chuộng. Cá Chép là một trong những loài cá nuôi truyền thống, có lịch sử phát triển nuôi lâu đời nhất. Loài cá này đóng vai trò quan trọng trong nghề nuôi cá nước ta nói riêng và các nước nhiệt đới khác nói chung, mang lại thu nhập cao cho người nuôi. Cá Chép có lịch sử lâu đời và được nuôi rộng rãi như hiện nay là do chúng có rất nhiều ưu điểm: Chịu đựng được ngưỡng oxy thấp và ngưỡng chịu nhiệt rộng. Ăn được nhiều loại thức ăn – thức ăn tự nhiên, thức ăn chế biến và thức ăn công nghiệp. Chất lượng thịt cá Chép thơm ngon, bán được giá cao. Bên cạnh đó cá Chép còn có ý nghĩa tâm linh, được nuôi làm cảnh nhiều. Vì vậy các mô hình nuôi ngày càng được mở rộng, sản lượng cá tăng lên hàng năm.
Tuy vậy, một hạn chế của ngành Nuôi trồng Thủy Sản nói chung và của nghề nuôi cá Chép nói riêng là vấn đề chất lượng con giống kém, tỷ lệ cá giống nhiễm các loại bệnh là khá cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của người nuôi. Một trong những nguyên nhân đó là ở giai đoạn cá hương, cá giống thường gặp ngoại ký sinh trùng đơn bào và đa bào. Với khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa của nước ta là điều kiện thuận lợi cho ký sinh trùng phát triển. Các bệnh do chúng gây ra có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người, động vật và gây tổn thất to lớn đối với sản xuất nông ngư nghiệp. Chúng gây ra dịch bệnh làm cá sinh trưởng và phát triển kém hoặc chết nhiều gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. Với cường độ nhiễm thấp, cá chậm lớn, chất lượng con giống kém. Nếu nhiễm với cường độ cao gây chết rải rác đến hàng loạt làm ảnh hưởng đến kinh tế của người nuôi. Tuy nhiên hiện nay việc xử lý đàn cá nhiễm bệnh đang gặp nhiều khó khăn. Thuốc, hóa chất sử dụng an toàn với môi trường sinh thái lại không hoặc kém tác dụng điều trị. Còn thuốc và hóa chất có hiệu quả điều trị bệnh lại có độ độc và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Vì vậy thử nghiệm các loại thuốc, hóa chất với nồng độ thích hợp để xử lý ký sinh
trùng đang được các nhà bệnh học thủy sản quan tâm nghiên cứu để đạt hiệu
quả điều trị cao nhất mà không độc hại và ảnh hưởng đến môi trường.
Xuất phát từ thực tế trên, đồng thời góp phần tìm ra biện pháp xử lý hiệu quả nhất để khuyến cáo bà con nuôi thủy sản có biện pháp phòng và xử lý, hạn chế thiệt hại kinh tế do ngoại ký sinh trùng gây ra, chúng tôi tiến hành đề tài: “Tìm hiểu tình hình nhiễm và biện pháp xử lý ngoại ký sinh trùng ký sinh trên cá Chép ở giai đoạn cá hương và cá giống tại khu vực trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội”
1. Mục tiêu đề tài:
- Đánh giá tình hình nhiễm ngoại ký sinh trùng trên cá Chép giai đoạn cá hương và cá giống
- Mục đích tìm loài ký sinh trùng, CĐN, TLN và giai đoạn nhiễm trên cá Chép
- Tìm ra một số thuốc, hóa chất và biện pháp xử lý nhằm mang lại hiệu quả điều trị bệnh cao
2. Nội dung nghiên cứu:
- Xác định thành phần giống loài ngoại ký sinh trùng trên cá Chép giai đoạn từ cá hương lên cá giống
- Xác định thời điểm nhiễm ngoại ký sinh trùng
- Thử nghiệm thuốc và hóa chất xử lý ngoại ký sinh trùng
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Một số đặc điểm sinh học của cá chép
1.1. Phân loại
Cá chép thuộc:
Bộ: Cá Chép – Cypriniformes
Họ: Cá Chép – Cyprinidae
Giống: Cá Chép – Cyprinus
Loài: Cá Chép – Cyprinus carpio
1.2. Đặc điểm hình thái và phân bố
Cá Chép thân cao, hình thoi, dẹt hai bên. Nhìn bên ngoài của cá ta có thể chia cơ thể cá làm 3 phần: đầu, thân và đuôi. Ranh giới giữa đầu và thân là khe mang cuối cùng. Ranh giới giữa thân và đuôi là vây hậu môn.
Đầu cá Chép nhỏ, thuôn cân đối. Mõm tròn tù. Có 2 đôi râu: Râu mõm ngắn hơn đường kính mắt, râu góc hàm bằng hoặc lớn hơn đường kính mắt. Mắt vừa phải ở 2 bên, thiên về phía trên của đầu. Khoảng cách 2 mắt rộng và lồi. Miệng hướng phía trước, hình cung khá rộng. Hàm dưới hơi dài hơn hàm trên. Môi dưới phát triển hơn môi trên. Lược mang ngắn, thưa. Răng hầu phía trong có mặt nghiền vân rãnh rõ.
Vây lưng có khởi điểm sau khởi điểm vây bụng một ít, gốc vây lưng dài, viền sau hơi lõm, tia đơn cuối là gai cứng rắn chắc và phía sau có răng cưa. Vây ngực, vây bụng và vây hậu môn ngắn. Viền sau vây lưng lõm và các tia vây ngắn đều, các vây màu hồng. Vây hậu môn viền sau lõm, tia đơn cuối hóa xương rắn chắc và phía sau có răng cưa. Hậu môn ở sát gốc vây hậu môn. Vây đuôi phân thùy sâu, hai thùy hơi tầy và tương đối bằng nhau.
Vẩy tròn lớn. Đường bên hoàn toàn, chạy thẳng giữa thân và cán đuôi. Gốc vây bụng có vẩy nách nhỏ dài.
Đốt sống toàn thân 33 – 34 (18 + 15 – 16). Bóng hơi 2 ngăn. Ruột ngắn bằng 0,8 – 1,8 lần chiều dài thân.
Mầu sắc: Lưng xanh đen, hai bên thân phía dưới đường bên vàng xám, bụng trắng bạc. Gốc vây lưng và vây đuôi hơi đen. Vây đuôi và vây hậu môn đỏ da cam (Cá nước ngọt Việt Nam – tập 1, 2006).
Hình 1: Ảnh cá Chép hương và Chép giống
Cá Chép phân bố rộng khắp các vùng trên toàn thế giới trừ Nam Mỹ, Tây Bắc Mỹ, Madagasca và châu Úc, chúng sống được trong các thủy vực nước ngọt. Ở Việt Nam, cá sống tự nhiên trong các vực nước ở các tỉnh phía Bắc. Giới hạn trong tự nhiên của cá này về phía Nam là sông Ba Nam Trung Bộ (Nguyễn Hữu Dực, 1997). Hiện nay do việc di và thuần hóa cá Chép vào các tỉnh phía Nam nên nó đã được phát tán ra nhiều khu vực nước tự nhiên. Cá Chép có rất nhiều loài: chép vảy, chép kính, chép trần, chép gù, chép đỏ… nhưng loài nuôi phổ biến là Chép vảy, hay còn được gọi là Chép trắng. Từ năm 1972 đến nay, nước ta đã nhập thêm các loại cá Chép kính, Chép trần, Chép vảy từ các nước Hungari, Indonesia, Pháp cho lai tạo với cá Chép Việt (Nguyễn Duy Khoát, 2005). Hiện nay ở Việt Nam, giống cá Chép được người nuôi ưa chuộng là giống V1 do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1 chọn giống. Cá Chép V1 có nhiều đặc tính tốt do được tập hợp từ các dòng cá Chép: chép vẩy Hungari, chép vàng Indonesia, chép trắng Việt Nam.
1.3. Tập tính sống và dinh dưỡng
Cá Chép sống ở tầng giữa và tầng đáy là chủ yếu, nơi có nhiều mùn bã hữu cơ, thức ăn đáy và cỏ nước, trong các loại mặt nước ao, hồ, đầm, sông, ruộng… Cá chịu được nhiệt độ từ 0 – 400 C, thích hợp ở 20 - 270 C. Cá có thể sống trong điều kiện khó khăn khắc nghiệt. Cá Chép chịu được ngưỡng oxy thấp, do đó có thể nuôi với mật độ cao. Cá Chép ăn tạp, thiên về động vật không xương sống ở đáy. Trong ống tiêu hóa của cá Chép, thức ăn khá đa dạng như mảnh vụn thực vật, hạt, rễ cây, các loài Giáp xác, ấu trùng muỗi, ấu trùng côn trùng, thân mềm. Tùy theo kích thước cá và mùa vụ dinh dưỡng mà thành phần thức ăn có thay đổi nhất định. Cá 3 – 4 ngày tuổi dài 6 – 7,2mm, cá sống phổ biến ở tầng nước trên là chính. Cá được 4- 6 ngày tuổi dài 7,2 - 7,5 mm, sống ở tầng nước giữa, thức ăn chủ yếu là sinh vật phù du. Cá 8 – 10 ngày tuổi dài 14,3 – 19mm, các vây bắt đầu hoàn chỉnh, có vẩy, râu, thức ăn chủ yếu là sinh vật đáy cỡ nhỏ. Cá 20 – 28 ngày tuổi dài 19 – 28mm, chủ yếu sống ở tầng đáy, ăn sinh vật đáy, mùn bã hữu cơ và một ít sinh vật phù du. Khi trưởng thành, cá Chép ăn sinh vật đáy là chính: giun, ấu trùng, côn trùng, nhuyễn thể, giáp xác… Ngoài ra cá còn ăn thêm hạt, củ, mầm thực vật… nuôi trong ao cá ăn tạp. Trong nuôi trồng thủy sản, có thể sử dụng các thức ăn chế biến, thức ăn công nghiệp để nuôi cá Chép (Cá nước ngọt Việt Nam – tập 1, 2006).
1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Cá Chép là loài cá có kích thước trung bình. Cấu trúc thành phần tuổi của cá Chép ở sông Hồng trước đây có tới 7 nhóm tuổi. Sinh trưởng chiều dài hàng năm của cá Chép như sau: 1 tuổi là 17,3 cm, 2 tuổi là 20,6 cm, 3 tuổi là 30,2 cm, 4 tuổi là 35,4 cm, 5 tuổi là 41,5 cm, và 6 tuổi là 47,5 cm. Tốc độ tăng trưởng giảm dần theo chiều dài nhưng lại tăng đều về khối lượng. Sinh trưởng của cá Chép phụ thuộc nhiều vào mật độ và thức ăn. Cá lớn khá nhanh sau một năm nuôi, có thể đạt 1,5 – 2kg. Cá Chép nội địa tăng 0,3 – 0,5kg ở năm đầu tiên và 0,7 – 1,0kg ở năm thứ hai. Cá sinh trưởng tốt ở các vùng ruộng trũng và các vực nước nông (Cá nước ngọt Việt Nam – tập 1, 2006).
Trên thế giới, cá Chép có thể lớn tới độ dài tối đa khoảng 1,2m và cân nặng tối đa 37,3kg cũng như tuổi thọ cao nhất được ghi lại là 47 năm. Những giống sống trong tự nhiên hoang dã có xu hướng nhỏ và nhẹ hơn khoảng từ 20 – 33% các kích cỡ và khối lượng cực đại (vi.wikipedia.org/wiki/Cá_chép). Ngày 2/7/2007, Kik (Thái Lan) đã bắt được một con cá chép nặng 120kg và đã được công nhận là con cá chép lớn nhất trong lịch sử câu cá của thế giới.
Hình 2: Cá Chép khổng lồ
1.5. Đặc điểm sinh sản
Cá Chép thành thục và sinh sản sau một năm tuổi, chúng có thể sinh sản nhiều lần trong năm (Nguyễn Hữu Thọ và Đỗ Đoàn Hiệp, 2004). Trong ao nuôi, cá Chép có thể sinh sản tự nhiên vào mùa xuân và đầu mùa hạ. Khi gặp điều kiện thuận lợi, cá Chép cặp đôi tìm bãi có nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ trứng.
Ở miền Bắc, mùa sinh sản của cá Chép thường có hai vụ: Vụ Đông – Xuân từ tháng 2 – 5 và vụ Thu từ tháng 8 – 9. Ở các sông, cá thường di cư vào các bãi ven sông có nhiều cỏ nước. Cá Chép thường đẻ trứng vào lúc sáng sớm, số lượng trứng phụ thuộc vào kích thước cá bố mẹ và giống loài, khoảng 15 – 20 vạn trứng/1kg cá cái. Cá Chép thành thục thường đẻ tự nhiên vào những ngày thời tiết thay đổi như: mưa, gió… hoặc khi có nước mới. Trứng cá Chép có hình cầu, hơi vàng đục, đường kính trứng 1,2 – 1,8mm. Trứng cá Chép thuộc loại trứng dính, bám vào các giá thể: cây cỏ, thực vật thủy sinh. Nhiệt độ đẻ trứng thích hợp từ 20 – 22oC (Cá nước ngọt Việt Nam – tập 1, 2006).
2. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá trên thế giới và Việt Nam
2.1. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá trên thế giới
Ban đầu là những nghiên cứu sơ khai của Linnae về ký sinh trùng (1707 – 1778). Tiếp theo là những nghiên cứu của Viện sỹ V. A. Dogiel (1882 – 1956) thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ đã đưa ra “phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng trên cá”, mở ra một hướng phát triển mới cho nghiên cứu về các khu hệ ký sinh trùng trên cá và các loại bệnh do ký sinh trùng gây ra, cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu ký sinh trùng cá vẫn áp dụng. Viện sỹ Bychowsky và các cộng sự, năm 1962 đã xuất bản cuốn sách: “Bảng phân loại ký sinh trùng của cá nước ngọt Liên Xô” đã mô tả 1211 loài ký sinh trùng của khu hệ cá nước ngọt Liên Xô. Tiếp tục năm 1984, 1985, 1987 công trình nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt Liên Xô đã xuất bản thành hai phần gồm ba tập, do O.N. Bauer là chủ biên chính, S. S. Schulman chủ biên tập 1, A. V. Gussev chủ biên tập 2, O. N. Bauer chủ biên tập 3. Ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu ký sinh trùng lâu năm của Liên Xô cũ. Công trình đã mô tả hơn 2.000 loài ký sinh trùng của 233 loài cá thuộc 25 họ cá nước ngọt Liên Xô. Có thể nói Liên Xô cũ là nước có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở cá sớm nhất, toàn diện và đồ sộ nhất (Bùi Quang Tề, 2001).
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Liên Xô cho thấy các loài sán đơn chủ thuộc một số họ Dactylogyridae, Tetraonchidae có tính đặc hữu rất cao, mỗi loài cá chỉ bị một số loài sán lá đơn chủ nhất định ký sinh, nghĩa là những loài sán lá đơn chủ chỉ ký sinh ở một ký chủ nhất định. Nghiên cứu về sán lá đơn chủ, Gussev cho rằng sự phân loại và tiến hóa của họ Dactylogyridae, Diplozoonidae, Ancyloliscoidae có liên hệ với ký chủ của chúng, sán lá đơn chủ (Monogenea) ở cá nước ngọt chủ yếu ký sinh trên bộ cá Chép. Hầu hết giống cá Chép là ký chủ của họ Dactylogyridae và Diplozoonidae (Lê Ngọc Quân, 2005)
Các nước châu Âu khác cũng có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh trùng trên cá. Lom (1958 – 1997) người Tiệp Khắc đã nghiên cứu ký sinh trùng Ciliophora, Myxozoa, Microspora, Spotozoa và Mastigophora trên động vật trong đó có cá. Lom và G. Grupcheva (1976), nghiên cứu ký sinh đơn bào của cá Chép ở Tiệp khắc và Bungari, các tác giả đã so sánh sự xuất hiện bệnh và mô tả loài mới. Năm 1992, Lom và Iva Dykova đã xuất bản cuốn “Ký sinh trùng đơn bào (Protozoa) của cá”. Họ cho biết hiện nay có xấp xỉ 2.420 loài ký sinh trùng đơn bào (Protozoa) ở cá đã được công bố. Nhiều loài gây nguy hiểm cho cá nuôi nước ngọt và nuôi nước biển. Cuốn sách đã giới thiệu phương pháp nghiên cứu và hệ thống phân loại của 7 ngành ký sinh đơn bào ở cá, gồm: ngành trùng Roi (Mastigophora), ngành Opalinata, ngành Amip (Amoebae), ngành trùng Bào tử (Apicomplexa), ngành vi bào tử (Microspora), ngành bào tử (Myxozoa), ngành trùng Lông (Ciliophora) (Bùi Quang Tề, 2001).
Châu Phi và Trung Cận Đông đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở cá, trong đó có Paperna I. (1961, 1964, 1965, 1996); D. C. Kritsky (1960). Năm 1964, Paperna đã nghiên cứu ký sinh trùng đa bào của 29 loài cá nội địa Israel và phát hiện được 116 loài ký sinh trùng. Năm 1996, Paperna cho xuất bản cuốn sách “Ký sinh trùng và bệnh truyền nhiễm ở cá Châu Phi”, ông đã mô tả các bệnh ký sinh trùng ở các trại nuôi cá và phân loại ký sinh trùng quan trọng của cá (Bùi Quang Tề, 2001).
Ở Trung Quốc, việc nghiên cứu ký sinh trùng – bệnh cá và động vật thủy sản nói chung khá phát triển so với các nước Châu Á. Từ giữa thế kỷ 20 đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh trùng cá: Chen Chinleu (1955, 1956, 1960); Nie Dashu (1960); Yin Wen-ying (1960, 1962, 1963); Wu H.S. (1956). Năm 1973, Chen Chinleu là chủ biên cuốn sách: “Ký sinh trùng cá nước ngọt tỉnh Hồ Bắc”. Ông điều tra 50 loài cá nước ngọt đã phát hiện 382 loài ký sinh trùng trong đó có 17 loài sán lá đơn chủ, 33 loài sán lá song chủ, 10 loài sán dây. Các loài cá có nhiều ký sinh trùng nhất là cá Chép, cá Mè trắng, cá Trắm cỏ (Trần Thị Hà, 1997).
Ở Nhật Bản, công trình đồ sộ nhất của nhà ký sinh trùng học Yamaguti S (1958, 1960, 1963, 1971) đã tổng kết kết quả nghiên cứu giun, sán ký sinh ở động vật và người trên toàn thế giới, xuất bản thành nhiều tập. Nagasawa K.; Awakura T. và Urawa S. (1989) đã tổng kết nghiên cứu ký sinh trùng trên cá nước ngọt ở Hokkaido - Nhật Bản và xác định được 96 loài ký sinh trùng trong đó 38 loài chưa xác định được tên loài (Bùi Quang Tề, 2001).
Ngoài ra một số nước như Ấn Độ có công trình nghiên cứu của Thapar, 1976 đã tổng kết về sán lá đơn chủ (Monogenea) có 100 loài ký sinh trùng ký sinh ở các loài cá Ấn Độ. Năm 1976, Gussev nghiên cứu 37 loài cá nước ngọt Ấn Độ, phân loại được 57 loài sán đơn chủ trong đó đã phát hiện 40 loài sán lá đơn chủ là loài mới đối với khoa học (Bùi Quang Tề, 2001).
Ở một số nước trong khu vực như Thái Lan, công trình nghiên cứu đầu tiên về bệnh ký sinh trùng cá nuôi là của C.B Wilson, 1926 – 1927 thông báo về hiện tượng rận cá thuộc giống Argulus ký sinh trên cá nước ngọt Thái Lan và đến năm 1928 cũng tác giả này lại miêu tả về bệnh lý trên cá trê Thái Lan có một loài thuộc giống Carligus ký sinh. Qua tổng kết, một số nguyên sinh động vật, sán lá đơn chủ là tác nhân gây bệnh ký sinh trùng như: Chilodonella, Trichodina, Costia, Heneguya, Dactylogyrus, Gyrodactylus... Ngoài ra, Paiboon Yutisri; Aprirum Thuhanruksa (1985), khi điều tra khu hệ ký sinh trùng của một số cá sống tự nhiên ở một số vùng của Thái Lan đã phát hiện 16 loài ký sinh trùng, trong đó gồm 3 loài ngoại ký sinh và 13 loài nội ký sinh ở cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) (Bùi Quang Tề, 2001). Còn theo Tonguthai (1992), các nhà khoa học Thái Lan không chỉ dừng ở đó mà còn đi sâu nghiên cứu một số bệnh ký sinh trùng như bệnh: Opisthorchosis do Opisthorchis viverini ký sinh trong gan người. Không những thế, khu hệ ký sinh trùng cá Thái Lan ngày càng phong phú bởi sự bổ sung của ký sinh trùng cá nước mặn. Năm 1981, L. Ruangpan đã viết cuốn sách đầu tiên về ký sinh trùng ký sinh ở cá biển dọc bờ biển Thái Lan.
Ở Indonesia, khi nghiên cứu sán dây, sán lá song chủ và giun đầu gai trên cá nước ngọt ở Java, Louis Bovien (1926, 1927, 1933) đã mô tả một giống mới và loài mới Djombangia penetrans tìm thấy ở cá trê trắng (Clarias batrachus); Isoparorchis eurytremum ở cá Wallago attu. Tiếp theo nhà khoa học người Đức Alfred L. Buschkiel (1932, 1935) đã nghiên cứu ký sinh trùng đơn bào (Ichthyophthyrius multifiliis) ở một số loài cá nước ngọt của Indonesia (Bùi Quang Tề, 2001). Đến năm 1952, sự ra đời của cuốn sách “Những dấu hiệu của những loại ký sinh trùng trên cá nước ngọt ở Indonesia” của tác giả M.Sachlan thực sự là bước ngoặt trong ngành ký sinh trùng học nước này.
Malaysia là nước nghiên cứu ký sinh trùng của cá muộn hơn. Trong giai đoạn 1861 – 1973, Furtado và Fernanda có báo cáo về phân loại và hình thái của một số giun sán ký sinh ở cá nước ngọt Malaysia (Richard Arthur J, 1996). Cũng như ở Thái Lan và nhiều nước khác, khu hệ ký sinh trùng ở Malaysia ngày càng phong phú khi sự nghiê